
Đám cưới truyền thống của người Tày trải qua các nghi 
thức: Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ 
đón dâu và đưa dâu. Từ các hình thức nghi lễ, trang phục, ẩm thực đến điệu hát 
quan lang… đám cưới không đơn thuần là nghi thức kết duyên đôi lứa mà còn giáo 
dục về nghĩa vợ chồng, về các mối quan hệ gia đình, dòng tộc.
Đám cưới người Tày: Kết duyên, kết cả họ 
hàng
Người già làm bạn, đã có ý hướng con trai, 
con gái mình đến với nhau. Khi bố mẹ thuận rồi và đôi trẻ đến tuổi đính ước, họ 
sẽ tiến hành lấy mệnh, hỏi lộc mệnh của người con gái. Người ta so bằng các con 
giáp, nếu xung khắc thì dù yêu đến đâu, họ cũng không lấy 
nhau.
   Người Tày đặt 3 lần lễ mới tổ chức được 
ngày cưới. Thứ nhất là đi hỏi ý bố mẹ cô dâu. Phải có 1-2 cân thịt, 1 lít rượu 
cho ông đại diện đi tìm hiểu. Nếu cho rồi, thứ hai, mới đi lấy 8 số mệnh của cô 
dâu, chú rể. Đi lấy số cho cô dâu về rồi, lại đi xem số của anh với số của chị 
có hợp, có gì khắc với nhau, như thế người ta mới lấy 
nhau.
Tuổi hợp rồi thì nhà trai sẽ tiến hành lễ 
dạm hỏi, gọi là lễ pao minh. Một ông chú, ông bác cao tuổi đại diện cho nhà trai 
cùng một người đi gánh lễ vật, gồm: đôi gà trống thiến, gạo nếp, 1-2 cân thịt 
lợn và hai chai rượu nếp nương. Trong lễ ăn hỏi, hai bên bàn bạc và quyết định 
lễ vật cưới. Trước đây, tục thách cưới của người Tày khá nặng nề, thể hiện qua 
câu tục ngữ “nhinh khai, chài dư”, nghĩa là “gái bán, trai mua”. Dần dần, do 
được tự tìm hiểu, yêu nhau rồi mới lấy, nhà gái cũng thông cảm với điều kiện 
kinh tế của nhà 
trai.
“Thách cưới, cứ 100 cái bánh dày, 120 kg 
thịt xôi. Nhà có bao nhiêu người thì bao nhiêu cái lễ. Bố mẹ, anh em, mỗi gia 
đình 1 con gà, 1 cái bánh. Họ hàng có nhiều người ta đòi nhiều, sau này chị có 
con thì những người họ hàng ấy lại mang gà đi phục vụ chị” – bà Vân 
nói.
Theo phong tục, mọi chi phí tổ chức đám 
cưới, sản vật dùng làm cỗ cưới của nhà gái đều do nhà trai lo liệu. Lễ vật đón 
dâu thường gồm: Tiền dẫn cưới, 100 chiếc bánh chưng, 400 chiếc bánh dày nhỏ, con 
lợn trên một tạ; 150 - 300 đôi bánh dày; 120 - 150 chiếc bánh tét; 10 - 15 con 
gà trống thiến. Và một người con rể có tâm còn phải để ý nhà vợ tương lai có bao 
nhiêu cô dì chú bác, anh chị em, thì gửi gắm cho mỗi người chút 
quà.
Nhà trai gánh sang 3 gánh lễ, nhà gái cho 
đi cả xe của hồi 
môn!
Lễ cưới chính thức tổ chức trong hai ngày. 
Nhà gái tổ chức hôm trước, nhà trai tổ chức hôm sau. Trước khi nhà trai đi đón 
dâu, phải làm lễ cúng tổ tiên. Lễ vật không thể thiếu đôi gà: 1 trống 1 mái, 
biểu hiện cho sự sinh sôi nảy nở. Đoàn người nhà trai đi đón dâu cũng phải có 
đôi, tổng là con số chẵn, tượng trưng cho sự may mắn. Thành phần đoàn thường từ 
8 - 10 người, gồm: ông trưởng họ, bà mối, phù dâu phù rể và một số bạn bè, người 
thân.
Bà Nông Thị Vân thống kê lễ vật: “Lúc đi 
đón con dâu ấy, ba gánh lễ vật gồm bánh, con gà, thuốc lá, trầu cau, hẳn 1 con 
lợn quay nữa , 1 con lợn to 80 – 100kg, kèm theo hàng trăm chiếc bánh, 1 đôi lợn 
còn sống trọng lượng khoảng 6-70kg, to nữa càng 
tốt”.
Thường thì đám cưới rất cần sự chuẩn bị chu 
đáo của nhà trai, nhưng theo phong tục người Tày, nhà gái phải lo liệu từ rất 
sớm, thậm chí họ phải lo ngay từ khi sinh con 
gái.

Gánh lễ vật sang nhà gái.  Ảnh: 
baomoi.com
“Từ khi đẻ con gái là bà mẹ đã nghĩ chuyện 
rồi. Sau đó, trước ngày cưới 2-3 tháng là chuẩn bị. Toàn bộ chăn màn vải vóc là 
từ bàn tay của mẹ và của người sẽ làm dâu đó khâu vá hết, chứ không phải bỏ tiền 
đi mua. Phổ biến nhất là 4 chăn 4 màn, lấy số đôi chứ không dùng số lẻ. Gia đình 
khó khăn cũng phải 2 chăn 2 màn. Nếu con dâu thuộc nhà khá giả thì còn 1 bộ chăn 
màn cho ông bà nội, cho bố mẹ, cho vợ chồng, bộ để ở phòng khách…” – theo ông 
Hoàng Đức Hiền, Phó chủ tịch Hội bảo tồn dân ca tỉnh Cao 
Bằng.
Con gái Tày khoảng 10 tuổi đã lo trồng bông 
dệt vải, để khi kết hôn, có đủ gánh lễ dâng lên bàn thờ nhà chồng, đủ quà biếu 
ông bà nội ngoại, bố mẹ, cô dì chú bác bên chồng. Của hồi môn cô gái mang theo 
được mẹ đẻ và các bà các dì chuẩn bị chu đáo. Thường là vải vóc, chăn màn, đồ 
trang sức... đựng trong rương gỗ. Đồng thời, cô dâu còn phải chuẩn bị đầy đủ các 
dụng cụ phục vụ sinh hoạt và lao động sản 
xuất.
Bà Vân bảo: “Nhiều lắm, có người hàng xe 
ngựa. Bắt buộc phải có, không có thì con gái bảo bố mẹ đẻ không chuẩn bị cho, 
con gái xấu hổ với bạn bè. Nếu đi làm dâu mà tách ra ở riêng thì cũng đủ làm ăn, 
không thiếu cái gì. Người Tày ở Cao Bằng thì họ giúp nhau, như bà gả con gái thì 
các bà các cô giúp mỗi người một cái chăn bông hoặc cái màn, chứ bố mẹ không tự 
sắm được hết. Nếu người ta gả con gái thì mình lại tặng, chẳng khác gì mượn nhau 
giúp 
nhau”.
Cô dâu mới không ở nhà 
chồng
Điều đặc biệt trong đám cưới người Tày là 
sau khi đón dâu, cô dâu mới không ở lại nhà chồng mà quay về nhà mẹ đẻ. Sau đó, 
cô được mẹ chồng “kiếm cớ” nhà bận nhiều công chuyện để gọi về, như: cấy lúa, 
nhổ mạ, giã gạo… cốt để đôi trẻ có dịp gần gũi. Khi cô gái có mang, chuẩn bị đến 
ngày sinh nở, mới được nhà chồng đón về. Và khi sinh con, cô dâu lúc này mới 
chính thức trở thành người bên 
chồng.
  Nhà trai đưa người con dâu đi trình họ 
hàng tổ tiên nhà trai xong, cô dâu lại quay về nhà mẹ. Đến 3 ngày sau, bên nhà 
trai có 1 lễ nhỏ thôi, có gà, xôi, thịt lợn, đến cảm ơn nhà gái. Sau đó, người 
con dâu gánh cái gánh nhà trai mang đến buổi sáng ấy về nhà chồng, nhưng cũng 
không ở nhà trai, mà lại về. Khi nhà trai bận ngày mùa cày cấy thì đi đón cô con 
dâu về. Ban ngày, con dâu đi làm, đêm lại về bố mẹ đẻ. Cho đến khi mang thai 
tháng thứ 6-7 thì còn 1 lễ nữa, gọi là song khoăn. Khoăn là hồn vía. Nghĩa là 
tuy đã tổ chức rồi, nhưng hồn vía người con gái vẫn ở bên bố mẹ đẻ. Nay sắp sinh 
nở rồi thì đưa hồn vía của con gái về hẳn, chính thức ở lại sống bên nhà 
trai.
Thu Hòa

Đám cưới truyền thống của người Tày trải qua các nghi 
thức: Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ 
đón dâu và đưa dâu. Từ các hình thức nghi lễ, trang phục, ẩm thực đến điệu hát 
quan lang… đám cưới không đơn thuần là nghi thức kết duyên đôi lứa mà còn giáo 
dục về nghĩa vợ chồng, về các mối quan hệ gia đình, dòng tộc.
Đám cưới người Tày: Kết duyên, kết cả họ 
hàng
Người già làm bạn, đã có ý hướng con trai, 
con gái mình đến với nhau. Khi bố mẹ thuận rồi và đôi trẻ đến tuổi đính ước, họ 
sẽ tiến hành lấy mệnh, hỏi lộc mệnh của người con gái. Người ta so bằng các con 
giáp, nếu xung khắc thì dù yêu đến đâu, họ cũng không lấy 
nhau.
   Người Tày đặt 3 lần lễ mới tổ chức được 
ngày cưới. Thứ nhất là đi hỏi ý bố mẹ cô dâu. Phải có 1-2 cân thịt, 1 lít rượu 
cho ông đại diện đi tìm hiểu. Nếu cho rồi, thứ hai, mới đi lấy 8 số mệnh của cô 
dâu, chú rể. Đi lấy số cho cô dâu về rồi, lại đi xem số của anh với số của chị 
có hợp, có gì khắc với nhau, như thế người ta mới lấy 
nhau.
Tuổi hợp rồi thì nhà trai sẽ tiến hành lễ 
dạm hỏi, gọi là lễ pao minh. Một ông chú, ông bác cao tuổi đại diện cho nhà trai 
cùng một người đi gánh lễ vật, gồm: đôi gà trống thiến, gạo nếp, 1-2 cân thịt 
lợn và hai chai rượu nếp nương. Trong lễ ăn hỏi, hai bên bàn bạc và quyết định 
lễ vật cưới. Trước đây, tục thách cưới của người Tày khá nặng nề, thể hiện qua 
câu tục ngữ “nhinh khai, chài dư”, nghĩa là “gái bán, trai mua”. Dần dần, do 
được tự tìm hiểu, yêu nhau rồi mới lấy, nhà gái cũng thông cảm với điều kiện 
kinh tế của nhà 
trai.
“Thách cưới, cứ 100 cái bánh dày, 120 kg 
thịt xôi. Nhà có bao nhiêu người thì bao nhiêu cái lễ. Bố mẹ, anh em, mỗi gia 
đình 1 con gà, 1 cái bánh. Họ hàng có nhiều người ta đòi nhiều, sau này chị có 
con thì những người họ hàng ấy lại mang gà đi phục vụ chị” – bà Vân 
nói.
Theo phong tục, mọi chi phí tổ chức đám 
cưới, sản vật dùng làm cỗ cưới của nhà gái đều do nhà trai lo liệu. Lễ vật đón 
dâu thường gồm: Tiền dẫn cưới, 100 chiếc bánh chưng, 400 chiếc bánh dày nhỏ, con 
lợn trên một tạ; 150 - 300 đôi bánh dày; 120 - 150 chiếc bánh tét; 10 - 15 con 
gà trống thiến. Và một người con rể có tâm còn phải để ý nhà vợ tương lai có bao 
nhiêu cô dì chú bác, anh chị em, thì gửi gắm cho mỗi người chút 
quà.
Nhà trai gánh sang 3 gánh lễ, nhà gái cho 
đi cả xe của hồi 
môn!
Lễ cưới chính thức tổ chức trong hai ngày. 
Nhà gái tổ chức hôm trước, nhà trai tổ chức hôm sau. Trước khi nhà trai đi đón 
dâu, phải làm lễ cúng tổ tiên. Lễ vật không thể thiếu đôi gà: 1 trống 1 mái, 
biểu hiện cho sự sinh sôi nảy nở. Đoàn người nhà trai đi đón dâu cũng phải có 
đôi, tổng là con số chẵn, tượng trưng cho sự may mắn. Thành phần đoàn thường từ 
8 - 10 người, gồm: ông trưởng họ, bà mối, phù dâu phù rể và một số bạn bè, người 
thân.
Bà Nông Thị Vân thống kê lễ vật: “Lúc đi 
đón con dâu ấy, ba gánh lễ vật gồm bánh, con gà, thuốc lá, trầu cau, hẳn 1 con 
lợn quay nữa , 1 con lợn to 80 – 100kg, kèm theo hàng trăm chiếc bánh, 1 đôi lợn 
còn sống trọng lượng khoảng 6-70kg, to nữa càng 
tốt”.
Thường thì đám cưới rất cần sự chuẩn bị chu 
đáo của nhà trai, nhưng theo phong tục người Tày, nhà gái phải lo liệu từ rất 
sớm, thậm chí họ phải lo ngay từ khi sinh con 
gái.

Gánh lễ vật sang nhà gái.  Ảnh: 
baomoi.com
“Từ khi đẻ con gái là bà mẹ đã nghĩ chuyện 
rồi. Sau đó, trước ngày cưới 2-3 tháng là chuẩn bị. Toàn bộ chăn màn vải vóc là 
từ bàn tay của mẹ và của người sẽ làm dâu đó khâu vá hết, chứ không phải bỏ tiền 
đi mua. Phổ biến nhất là 4 chăn 4 màn, lấy số đôi chứ không dùng số lẻ. Gia đình 
khó khăn cũng phải 2 chăn 2 màn. Nếu con dâu thuộc nhà khá giả thì còn 1 bộ chăn 
màn cho ông bà nội, cho bố mẹ, cho vợ chồng, bộ để ở phòng khách…” – theo ông 
Hoàng Đức Hiền, Phó chủ tịch Hội bảo tồn dân ca tỉnh Cao 
Bằng.
Con gái Tày khoảng 10 tuổi đã lo trồng bông 
dệt vải, để khi kết hôn, có đủ gánh lễ dâng lên bàn thờ nhà chồng, đủ quà biếu 
ông bà nội ngoại, bố mẹ, cô dì chú bác bên chồng. Của hồi môn cô gái mang theo 
được mẹ đẻ và các bà các dì chuẩn bị chu đáo. Thường là vải vóc, chăn màn, đồ 
trang sức... đựng trong rương gỗ. Đồng thời, cô dâu còn phải chuẩn bị đầy đủ các 
dụng cụ phục vụ sinh hoạt và lao động sản 
xuất.
Bà Vân bảo: “Nhiều lắm, có người hàng xe 
ngựa. Bắt buộc phải có, không có thì con gái bảo bố mẹ đẻ không chuẩn bị cho, 
con gái xấu hổ với bạn bè. Nếu đi làm dâu mà tách ra ở riêng thì cũng đủ làm ăn, 
không thiếu cái gì. Người Tày ở Cao Bằng thì họ giúp nhau, như bà gả con gái thì 
các bà các cô giúp mỗi người một cái chăn bông hoặc cái màn, chứ bố mẹ không tự 
sắm được hết. Nếu người ta gả con gái thì mình lại tặng, chẳng khác gì mượn nhau 
giúp 
nhau”.
Cô dâu mới không ở nhà 
chồng
Điều đặc biệt trong đám cưới người Tày là 
sau khi đón dâu, cô dâu mới không ở lại nhà chồng mà quay về nhà mẹ đẻ. Sau đó, 
cô được mẹ chồng “kiếm cớ” nhà bận nhiều công chuyện để gọi về, như: cấy lúa, 
nhổ mạ, giã gạo… cốt để đôi trẻ có dịp gần gũi. Khi cô gái có mang, chuẩn bị đến 
ngày sinh nở, mới được nhà chồng đón về. Và khi sinh con, cô dâu lúc này mới 
chính thức trở thành người bên 
chồng.
  Nhà trai đưa người con dâu đi trình họ 
hàng tổ tiên nhà trai xong, cô dâu lại quay về nhà mẹ. Đến 3 ngày sau, bên nhà 
trai có 1 lễ nhỏ thôi, có gà, xôi, thịt lợn, đến cảm ơn nhà gái. Sau đó, người 
con dâu gánh cái gánh nhà trai mang đến buổi sáng ấy về nhà chồng, nhưng cũng 
không ở nhà trai, mà lại về. Khi nhà trai bận ngày mùa cày cấy thì đi đón cô con 
dâu về. Ban ngày, con dâu đi làm, đêm lại về bố mẹ đẻ. Cho đến khi mang thai 
tháng thứ 6-7 thì còn 1 lễ nữa, gọi là song khoăn. Khoăn là hồn vía. Nghĩa là 
tuy đã tổ chức rồi, nhưng hồn vía người con gái vẫn ở bên bố mẹ đẻ. Nay sắp sinh 
nở rồi thì đưa hồn vía của con gái về hẳn, chính thức ở lại sống bên nhà 
trai.
Thu Hòa





