
Lễ cưới là một trong những nghi lễ vô cùng quan trọng, 
phản ánh đậm nét đời sống văn hóa vật chất, tinh thần của một dân tộc. Quá trình 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường, giao lưu, tiếp 
biến văn hóa diễn ra mạnh mẽ ở các tỉnh phía Bắc khiến nhiều phong tục, tập 
quán, trong đó có lễ cưới của người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn đang có sự biến đổi. 
Bài viết đi sâu phân tích quá trình biến đổi trong quan niệm về cưới xin, các 
nghi lễ cụ thể của nó tại 3 thôn: Bản Vàng, Bắc Đông 2, khối 5 Cao 
Lộc.
Biến đổi trong hình thức tổ 
chức
Tập quán cưới xin truyền thống của người 
Tày nói chung, người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn nói riêng trước đây được tiến hành 
với các bước, các nghi lễ với thủ tục nghiêm ngặt, trang trọng, đôi khi rườm rà, 
phức tạp. Theo Triều Ân, Hoàng Quyết trong Tục cưới xin của người Tày thì đám 
cưới trước đây thường trải qua 6 bước: lễ dạm hỏi, so lá số, mừng hợp số, ăn 
hỏi, sêu tết, cưới.
Hiện nay, về cơ bản, việc tổ chức cưới hỏi 
đã được giản lược rất nhiều. Dù tổ chức với quy mô lớn hay nhỏ thì đám cưới 
người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn hiện nay chủ yếu tiến hành qua 3 bước: lễ dạm ngõ, 
lễ ăn hỏi, lễ cưới, theo mô hình tam 
lễ.
Sự biến đổi không chỉ nằm ở chỗ giản lược 
các bước, mà ngay trong từng nội dung các nghi lễ, các thủ tục cũng có nhiều sự 
thay đổi. Chẳng hạn, lễ dạm ngõ đã có sự thay đổi trong hình thức thể hiện, ý 
nghĩa nghi lễ. Trước đây, thăm dò là thời điểm nhà trai nhờ mai mối tới nhà gái, 
thậm chí nhiều trường hợp, đôi trai gái còn chưa hề biết mặt nhau. Vì vậy, vai 
trò của ông mai, bà mối rất quan trọng. Ông bà mai là cầu nối giữa hai gia đình, 
là người kết duyên cho đôi trai gái, có ảnh hưởng không nhỏ tới lễ thành hôn 
cũng như cuộc sống vợ chồng sau này. Tuy nhiên, hiện nay, sự chắp nối của ông 
mai, bà mối không còn như trước nữa. Xuất phát từ chỗ đôi trai gái tự tìm hiểu 
nhau để đi đến hôn nhân nên cha mẹ, họ hàng chỉ đóng vai trò đại diện để thưa 
chuyện, đặt quan hệ cho hai bên gia đình, còn quyền quyết định vẫn thuộc về con 
cái. Hiện nay một số gia đình còn bỏ qua, không thực hiện riêng lễ thăm dò nữa 
mà tiến hành lễ ăn hỏi luôn, nhất là những gia đình ở xa nhau về địa lý, đi lại 
khó khăn.
Thay đổi về đồ sính lễ, phương thức đón 
dâu
Không chỉ lược bỏ một số nghi lễ trong thủ 
tục cưới hỏi mà ngay cả đồ sính lễ trong lễ hỏi, lễ cưới cũng có sự giản lược đi 
rất nhiều. Xuất phát từ quan niệm gả bán nên hôn nhân truyền thống của người Tày 
trước đây ở một góc độ nào đó mang tính chất mua bán khá rõ. Vì thế người Tày 
cũng có tục thách cưới rất 
cao.
Ngày nay, do điều kiện kinh tế, xã hội có 
nhiều thay đổi nên lễ ăn hỏi cũng được đơn giản hóa hơn trước về phương thức 
tiến hành, lễ vật. Thường đồ lễ ăn hỏi gồm có 2 chai rượu, 2 cỗ xôi, 2 con gà 
trống, trầu cau, kèm theo 2 triệu đồng tiền 
mặt.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi 
trong tục lệ thách cưới của người Tày ở Cao Lộc hiện nay. Thứ nhất, do trước 
đây, khi cô gái về nhà chồng phải sắm sửa rất nhiều đồ đạc: chăn, màn, gối, đệm, 
nồi, niêu, bát, đĩa… để mang theo, nên cần có một khoản tiền tương đối để chi 
tiêu. Hiện nay, phần lớn đồ đạc là do nhà trai tự sắm nên nhà gái lấy tiền ít 
đi. Tuy nhiên,có lẽ nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến sự thay đổi trong tục 
thách cưới của người Tày nằm ở sự thay đổi trong nhận thức. Bởi vì, nhà gái hiểu 
được rằng, việc thách cưới càng nặng bao nhiêu thì sau này chính con gái họ sẽ 
phải là người gánh chịu hậu quả, nhất là đối với những gia đình nhà trai khó 
khăn về kinh 
tế.

Đoàn đón dâu trong đám cưới của người 
Tày
Quá trình cư trú xen kẽ, sự giao lưu giữa 
các tộc người đã làm xuất hiện nhiều cuộc hôn nhân giữa người Tày với dân tộc 
khác. Để phù hợp với tập quán, đặc trưng văn hóa của từng dân tộc, nhiều thủ tục 
mang nặng tính lễ nghi đã được giản lược. Trước đây, từ khi ăn hỏi đến đám cưới 
chính thức phải cách chừng 2, 3 năm; nhưng ngày nay, sau nghi thức ăn hỏi, nếu 
chọn được ngày tốt thì khoảng 2, 3 tháng sau có thể tổ chức lễ cưới chính thức 
luôn. Thậm chí, có nhiều trường hợp làm theo người Kinh, sáng tổ chức lễ ăn hỏi, 
chiều tổ chức lễ cưới, đón dâu luôn, hiếm có trường hợp nào để đến một vài năm 
sau.
Cách thức tổ chức một lễ cưới của người Tày 
ở Cao Lộc đã lược bỏ đi nhiều thủ tục rườm rà, không còn phù hợp với sự phát 
triển của xã hội đương đại, theo hướng tích cực, tiến bộ, hiện đại hơn. Tuy 
nhiên, có thể thấy sự biến đổi cũng làm mất đi nhiều nét đẹp trong tập quán cưới 
xin truyền thống. Chẳng hạn, số của cải thách cưới được nhà trai chuẩn bị rất kỳ 
công, chu đáo cũng là sự bày tỏ lòng biết ơn, trân trọng công lao sinh thành, 
nuôi dưỡng của nhà gái, để nhà trai có thêm một sức lao động mới, một người con 
với vai trò vô cùng quan trọng, đặc biệt: sinh con, đẻ cái để nối dõi dòng họ. 
Trong đó, lễ vật nhà trai mang sang nhà gái nhất thiết phải có một tấm vải tặng 
mẹ vợ, gọi là rằm khấu, để trả công nuôi dưỡng của bà đối với con gái. Thường 
thì bà mẹ không sử dụng tấm vải đó may trang phục mà đem nhuộm, cất đi, đợi khi 
người con gái sinh con đầu lòng thì cắt ra để làm tã cho cháu. Hiện nay, phong 
tục này đã không còn. Thay vào đó, lễ vật mang sang nhà gái được quy ra tiền. 
Điều đó phần nào làm mất đi những giá trị nhân văn ẩn chứa đằng sau những tập 
quán truyền 
thống.
Đăng ký kết hôn trước khi 
cưới
Khác với việc tổ chức đám cưới là hình thức 
công khai hóa, hợp thức hóa rộng rãi sự chung sống chính thức của đôi nam nữ 
trước họ hàng, những người xung quanh, đăng ký kế thôn là việc đôi nam nữ xác 
lập quan hệ hôn nhân theo quy định của pháp luật, là sự chính thức hóa quan hệ 
vợ chồng trước pháp 
luật.
Cùng với việc tổ chức cưới hỏi thì đăng ký 
kết hôn dần trở thành một trong các thủ tục không thể thiếu. Điều đó chứng tỏ sự 
gắn kết giữa ý thức cộng đồng, ý thức về sự tôn trọng luật pháp của người dân 
ngày càng được nâng lên đáng kể. Những năm gần đây, nhất là từ sau đổi mới, các 
mối quan hệ được mở rộng, cuộc sống người dân ngày càng có nhiều tình huống cần 
đến sự trợ giúp pháp lý, người dân ngày càng nhận thức đầy đủ hơn việc thừa nhận 
của pháp luật với vấn đề kết hôn hợp 
pháp.
Thực tế cho thấy, có nhiều cặp không đăng 
ký kết hôn khi cưới, sau nhiều năm chung sống với nhau, mâu thuẫn xảy ra thì 
chính quyền không có nhiệm vụ hòa giải, pháp luật cũng không thể giải quyết, hầu 
hết do họ hàng hai bên tác động. Người Tày cho rằng, trong trường hợp đó, người 
phụ nữ bao giờ cũng chịu thiệt thòi. Do đó, họ nhận thức được việc đăng ký kết 
hôn giúp họ đảm bảo đủ quyền lợi, trách nhiệm trong cuộc sống vợ chồng. Sự kết 
hợp giữa nghi thức phong tục với nghi thức pháp luật trong tổ chức cưới hỏi là 
một trong những sự biến đổi tích cực, tiến bộ trong hôn nhân và cưới xin của 
người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn hiện 
nay.
Quy mô tổ chức cưới 
hỏi
Quy mô tổ chức đám cưới của người Tày ngày 
càng lớn, không chỉ gia tăng về số lượng mâm cỗ mà chất lượng các món ăn trong 
cỗ cưới cũng ngày càng được người dân quan tâm, đầu tư hơn. Tìm hiểu nguyên nhân 
dẫn đến việc quy mô tổ chức đám cưới ngày càng lớn, phần lớn các ý kiến đều 
thống nhất cho rằng do hiện nay kinh tế phát triển, người dân có điều kiện, 
phương tiện vật chất để tổ chức cỗ bàn đàng hoàng hơn, sang trọng hơn. Ngoài ra, 
quá trình giao lưu, buôn bán, làm ăn, công tác… người dân nói chung, thanh niên 
nam nữ Tày nói riêng cũng có cơ hội mở rộng hơn các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh 
đó, tâm lý cho bằng anh, bằng em hay phú quý sinh lễ nghĩacũng vẫn chiếm tỷ lệ 
tương đối. Nguyên nhân vì mục đích kinh tế cũng có nhưng rất 
ít.
Như vậy, quy mô tổ chức đám cưới của người 
Tày ở Cao Lộc ngày càng lớn hơn, nhiều hình thức tổ chức đám cưới trong xã hội 
hiện đại, nhất là của người Kinh đã, đang được người Tày tiếp thu, đưa vào trong 
phong tục cưới hỏi của dân tộc 
mình.
Quà mừng trong đám 
cưới
Theo phong tục, trong đám cưới, khách mời 
đến dự thường mang theo một món quà, có thể là hiện vật hoặc là tiền, với ý 
nghĩa chúc phúc, chia sẻ niềm vui với cặp vợ chồng trẻ. Có thể nói, quà mừng 
trong đám cưới là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người Tày. Đây là 
một phong tục đẹp, lâu đời, ẩn chứa những giá trị văn hóa rất đặc 
trưng.
Về giá trị của tiền mừng, tùy theo từng 
giai đoạn, theo điều kiện kinh tế, mối quan hệ thân tình giữa khách với gia chủ. 
Thông thường hiện nay, tiền mừng đám cưới của người Tày ở Cao Lộc phổ biến ở mức 
200.000 đồng trở lên. Nếu người trong cùng dòng họ hoặc thân thiết hơn có thể 
400.000 - 500.000 
đồng.
Khi so sánh về giá trị của quà mừng trong 
đám cưới với chi phí bỏ ra tổ chức đám cưới, kết quả nghiên cứu cho thấy nếu chỉ 
tính riêng chi phí cho việc tổ chức ăn uống thì tiền mừng của khách mời đủ để 
trang trải. Tuy nhiên, để tổ chức đám cưới, gia đình còn phải chi thêm nhiều các 
dịch vụ khác: thuê phông bạt, loa đài, thuê áo cưới, xe đưa đón dâu, bàn ghế, 
trang trí, chụp ảnh… nên tiền mừng không thể đủ, nhất là với nhà trai còn phải 
chi thêm một khoản mang sang nhà 
gái.
Ẩm 
thực
Trong đám cưới của người Tày hiện nay, về 
cơ bản vẫn giữ được các món ăn truyền thống đặc biệt của dân tộc mình như khâu 
nhục, lợn quay, vịt quay, xôi màu… nhưng các món này cũng đều có ảnh hưởng mới 
từ Trung Quốc. Chẳng hạn như món khâu nhục xuất hiện thêm chất phụ gia nhập từ 
Trung Quốc mà đồng bào gọi là slao phẩu nhi, đã làm cho mùi vị món ăn khác hẳn 
so với trước đây. Món nước chấm xưa kia của đồng bào đã thay thế bằng xì dầu 
ngoại nhập, thậm chí có món ăn hoàn toàn nhập từ Trung Quốc như món ca ra thầu 
(rau sấy khô đóng 
hộp).
Một số món ăn truyền thống của người Tày 
gắn với nông nghiệp nương rẫy, săn bắt hái lượm đã, đang mai một dần, đó là các 
loại bánh trứng kiến (được làm từ trứng, đúng hơn là nhộng của loài kiến đen vào 
mùa xuân thường làm tổ đẻ trên các ngọn cây trong rừng), bánh bột đao, bột báng, 
bánh củ mài. Nhiều món ăn mới cũng xuất hiện do sống hội nhập, đan xen với các 
tộc người khác, chủ yếu là người Kinh. Trong các món ăn, thịt lợn quay, khâu 
nhục vẫn là món không thể thiếu được trong đám cưới người Tày. Ngoài ra, hiện 
nay còn có thêm những món như giò chả, gà, vịt, xào thập cẩm, tôm, nem, thịt 
đông, khoai tây chiên, canh bóng, 
mọc…
Trong cỗ cưới của người Tày hiện nay, không 
chỉ có 4, 5 món luộc, xào như trước mà mỗi mâm đã có từ 8 - 10 món. Cỗ cưới đã 
có nhiều cải thiện với nhiều món ăn ngon miệng, bổ dưỡng, cách chế biến cũng như 
bài trí món ăn. Họ không chỉ sử dụng những nguyên liệu sẵn có từ tự nhiên mà có 
thể mua thêm nhiều gia vị đóng sẵn như miến, hạt tiêu, tương ớt, phẩm màu cũng 
như các chất bảo quản khác. Cách chế biến ngoài xào, luộc thì có thêm các món 
nướng, hấp cách thủy, kho... giống như của người Kinh. Ngoài ra, trong mâm cỗ 
còn có thêm hoa quả để cho khách tráng miệng sau khi 
ăn.
Còn có cả dịch vụ tổ chức quay lợn để sử 
dụng trong đám cưới, thuê người nấu cỗ, mang đến tận nhà. Các loại bánh kẹo công 
nghiệp, đồ hộp, nước có ga cũng được đồng bào sử dụng phổ biến. Thuốc lá được sử 
dụng loại cuốn máy sẵn có trên thị trường. Bên cạnh loại rượu gạo tự nấu truyền 
thống, các đồ uống công nghiệp cũng xuất hiện. Trên các mâm cúng, xuất hiện 
nhiều bánh kẹo nhập khẩu từ nước 
ngoài.
Trang phục cô dâu, chú rể trong đám 
cưới
Trang phục là yếu tố thể hiện bản sắc văn 
hóa dân tộc, dễ nhận thấy nhất trong một tập hợp đa tộc người. Nhưng đó cũng là 
yếu tố văn hóa dễ biến đổi nhất trong xu thế đô thị hóa, hiện đại hóa như hiện 
nay.
Việc cô dâu, chú rể mặc trang phục truyền 
thống trong ngày cưới hiện nay giảm dần. Các đám cưới của người Tày ở huyện Cao 
Lộc cho thấy, hiện nay, hầu hết chú rể mặc quần âu, áo sơ mi, thắt cà vạt, cài 
hoa; cô dâu mặc váy trắng, tóc quấn xoăn, trang điểm, tay cầm hoa theo xu hướng 
hiện đại. Những người tham gia lễ cưới hiện nay cũng có sự thay đổi trong cách 
ăn mặc. Họ thích mặc áo dài, váy như người Kinh để đi dự đám cưới cho đẹp, hiện 
đại. Một yếu tố khác nữa là nhiều người quan niệm mặc trang phục truyền thống 
lạc hậu, không đẹp, không lịch sự. Chính vì thế, người Tày từ lâu đã mặc quần áo 
như người 
Kinh.
Có thể thấy, trang phục cưới của cô dâu, 
chú rể là một trong những lĩnh vực biến đổi mạnh mẽ nhất, dễ nhận ra nhất. Xu 
hướng Âu hóa thông qua sự tiếp nhận của người Kinh đã tác động mạnh mẽ đến văn 
hóa Tày. Xu hướng này được giới trẻ hào hứng đón nhận. Giờ đây, nếu chỉ nhìn vào 
bộ trang phục cô dâu, chú rể thì không thể phân biệt đâu là đám cưới của người 
Tày, đâu là đám cưới người 
Kinh.
Của hồi môn của cô dâu, chú 
rể
Cũng như nhiều dân tộc khác, theo phong tục 
truyền thống của người Tày, khi lập gia đình, con cái thường được cha mẹ trao 
cho của hồi môn như là một chút tài sản để làm vốn liếng khi bước vào cuộc sống 
gia đình. Của hồi môn có thể là tiền, vàng, vật dụng gia đình, gia súc, đất đai, 
nhà cửa… Thực tế cho thấy, cuộc sống của đồng bào các dân tộc miền núi nói 
chung, trong đó có người Tày ở Cao Lộc nói riêng còn rất khó khăn, nên khi con 
cái xây dựng gia đình, bố mẹ không có nhiều tài sản có giá trị cho làm của hồi 
môn. Chủ yếu, nếu con gái đi lấy chồng thì cho một vài chỉ vàng hoặc ít tiền. 
Con trai lấy vợ thì ngoài vàng, ít tiền thì bố mẹ sắm sửa cho một ít đồ dùng 
trong gia đình, phương tiện đi 
lại...
Thời gian gần đây, của hồi môn mà cô dâu, 
chủ rể nhận được bằng vàng, tiền mặt tăng lên đáng kể. Của hồi môn là vật dụng 
gia đình tuy có giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ đáng kể. Từ năm 1987 trở lại đây, gia 
súc không còn là của hồi môn của cha mẹ cho con cái khi xây dựng gia đình 
nữa.
Quá trình hội nhập đang làm biến đổi mạnh mẽ tập quán 
cưới xin truyền thống của người Tày ở Cao Lộc trên tất cả các phương diện: quy mô, hình thức, nội dung tổ chức cưới 
hỏi. Một trong những biểu hiện dễ thấy nhất là lược bớt các thủ tục, nghi lễ 
rườm rà không còn phù hợp với xã hội hiện đại. Ngoài ra, xu hướng nổi trội trong 
tập quán cưới xin của người Tày ở Lạng Sơn hiện nay là tiếp thu, du nhập nhiều 
hình thức, nghi lễ cưới hỏi của các dân tộc khác, nhất là của người Kinh. Có thể 
nói, đây là sự biến đổi theo xu hướng tiến bộ, tích cực, hiện đại. Tuy vậy, dù 
tập quán cưới xin của người Tày có biến đổi đến mức độ nào thì vấn đề bảo tồn 
những giá trị tốt đẹp, làm cốt lõi cho bản sắc văn hóa tộc người vẫn cần được 
quan tâm gìn giữ, phát huy để văn hóa Tày không bị pha loãng, mai một, mà còn 
phát triển bền vững trong xã hội đương đại.
 GIANG THỊ 
HUYỀN
Lễ cưới là một trong những nghi lễ vô cùng quan trọng, 
phản ánh đậm nét đời sống văn hóa vật chất, tinh thần của một dân tộc. Quá trình 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường, giao lưu, tiếp 
biến văn hóa diễn ra mạnh mẽ ở các tỉnh phía Bắc khiến nhiều phong tục, tập 
quán, trong đó có lễ cưới của người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn đang có sự biến đổi. 
Bài viết đi sâu phân tích quá trình biến đổi trong quan niệm về cưới xin, các 
nghi lễ cụ thể của nó tại 3 thôn: Bản Vàng, Bắc Đông 2, khối 5 Cao 
Lộc.
Biến đổi trong hình thức tổ 
chức
Tập quán cưới xin truyền thống của người 
Tày nói chung, người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn nói riêng trước đây được tiến hành 
với các bước, các nghi lễ với thủ tục nghiêm ngặt, trang trọng, đôi khi rườm rà, 
phức tạp. Theo Triều Ân, Hoàng Quyết trong Tục cưới xin của người Tày thì đám 
cưới trước đây thường trải qua 6 bước: lễ dạm hỏi, so lá số, mừng hợp số, ăn 
hỏi, sêu tết, 
cưới.
Hiện nay, về cơ bản, việc tổ chức cưới hỏi 
đã được giản lược rất nhiều. Dù tổ chức với quy mô lớn hay nhỏ thì đám cưới 
người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn hiện nay chủ yếu tiến hành qua 3 bước: lễ dạm ngõ, 
lễ ăn hỏi, lễ cưới, theo mô hình tam 
lễ.
Sự biến đổi không chỉ nằm ở chỗ giản lược 
các bước, mà ngay trong từng nội dung các nghi lễ, các thủ tục cũng có nhiều sự 
thay đổi. Chẳng hạn, lễ dạm ngõ đã có sự thay đổi trong hình thức thể hiện, ý 
nghĩa nghi lễ. Trước đây, thăm dò là thời điểm nhà trai nhờ mai mối tới nhà gái, 
thậm chí nhiều trường hợp, đôi trai gái còn chưa hề biết mặt nhau. Vì vậy, vai 
trò của ông mai, bà mối rất quan trọng. Ông bà mai là cầu nối giữa hai gia đình, 
là người kết duyên cho đôi trai gái, có ảnh hưởng không nhỏ tới lễ thành hôn 
cũng như cuộc sống vợ chồng sau này. Tuy nhiên, hiện nay, sự chắp nối của ông 
mai, bà mối không còn như trước nữa. Xuất phát từ chỗ đôi trai gái tự tìm hiểu 
nhau để đi đến hôn nhân nên cha mẹ, họ hàng chỉ đóng vai trò đại diện để thưa 
chuyện, đặt quan hệ cho hai bên gia đình, còn quyền quyết định vẫn thuộc về con 
cái. Hiện nay một số gia đình còn bỏ qua, không thực hiện riêng lễ thăm dò nữa 
mà tiến hành lễ ăn hỏi luôn, nhất là những gia đình ở xa nhau về địa lý, đi lại 
khó khăn.
Thay đổi về đồ sính lễ, phương thức đón 
dâu
Không chỉ lược bỏ một số nghi lễ trong thủ 
tục cưới hỏi mà ngay cả đồ sính lễ trong lễ hỏi, lễ cưới cũng có sự giản lược đi 
rất nhiều. Xuất phát từ quan niệm gả bán nên hôn nhân truyền thống của người Tày 
trước đây ở một góc độ nào đó mang tính chất mua bán khá rõ. Vì thế người Tày 
cũng có tục thách cưới rất 
cao.
Ngày nay, do điều kiện kinh tế, xã hội có 
nhiều thay đổi nên lễ ăn hỏi cũng được đơn giản hóa hơn trước về phương thức 
tiến hành, lễ vật. Thường đồ lễ ăn hỏi gồm có 2 chai rượu, 2 cỗ xôi, 2 con gà 
trống, trầu cau, kèm theo 2 triệu đồng tiền 
mặt.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi 
trong tục lệ thách cưới của người Tày ở Cao Lộc hiện nay. Thứ nhất, do trước 
đây, khi cô gái về nhà chồng phải sắm sửa rất nhiều đồ đạc: chăn, màn, gối, đệm, 
nồi, niêu, bát, đĩa… để mang theo, nên cần có một khoản tiền tương đối để chi 
tiêu. Hiện nay, phần lớn đồ đạc là do nhà trai tự sắm nên nhà gái lấy tiền ít 
đi. Tuy nhiên,có lẽ nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến sự thay đổi trong tục 
thách cưới của người Tày nằm ở sự thay đổi trong nhận thức. Bởi vì, nhà gái hiểu 
được rằng, việc thách cưới càng nặng bao nhiêu thì sau này chính con gái họ sẽ 
phải là người gánh chịu hậu quả, nhất là đối với những gia đình nhà trai khó 
khăn về kinh 
tế.

Đoàn đón dâu trong đám cưới của người 
Tày
Quá trình cư trú xen kẽ, sự giao lưu giữa 
các tộc người đã làm xuất hiện nhiều cuộc hôn nhân giữa người Tày với dân tộc 
khác. Để phù hợp với tập quán, đặc trưng văn hóa của từng dân tộc, nhiều thủ tục 
mang nặng tính lễ nghi đã được giản lược. Trước đây, từ khi ăn hỏi đến đám cưới 
chính thức phải cách chừng 2, 3 năm; nhưng ngày nay, sau nghi thức ăn hỏi, nếu 
chọn được ngày tốt thì khoảng 2, 3 tháng sau có thể tổ chức lễ cưới chính thức 
luôn. Thậm chí, có nhiều trường hợp làm theo người Kinh, sáng tổ chức lễ ăn hỏi, 
chiều tổ chức lễ cưới, đón dâu luôn, hiếm có trường hợp nào để đến một vài năm 
sau.
Cách thức tổ chức một lễ cưới của người Tày 
ở Cao Lộc đã lược bỏ đi nhiều thủ tục rườm rà, không còn phù hợp với sự phát 
triển của xã hội đương đại, theo hướng tích cực, tiến bộ, hiện đại hơn. Tuy 
nhiên, có thể thấy sự biến đổi cũng làm mất đi nhiều nét đẹp trong tập quán cưới 
xin truyền thống. Chẳng hạn, số của cải thách cưới được nhà trai chuẩn bị rất kỳ 
công, chu đáo cũng là sự bày tỏ lòng biết ơn, trân trọng công lao sinh thành, 
nuôi dưỡng của nhà gái, để nhà trai có thêm một sức lao động mới, một người con 
với vai trò vô cùng quan trọng, đặc biệt: sinh con, đẻ cái để nối dõi dòng họ. 
Trong đó, lễ vật nhà trai mang sang nhà gái nhất thiết phải có một tấm vải tặng 
mẹ vợ, gọi là rằm khấu, để trả công nuôi dưỡng của bà đối với con gái. Thường 
thì bà mẹ không sử dụng tấm vải đó may trang phục mà đem nhuộm, cất đi, đợi khi 
người con gái sinh con đầu lòng thì cắt ra để làm tã cho cháu. Hiện nay, phong 
tục này đã không còn. Thay vào đó, lễ vật mang sang nhà gái được quy ra tiền. 
Điều đó phần nào làm mất đi những giá trị nhân văn ẩn chứa đằng sau những tập 
quán truyền 
thống.
Đăng ký kết hôn trước khi 
cưới
Khác với việc tổ chức đám cưới là hình thức 
công khai hóa, hợp thức hóa rộng rãi sự chung sống chính thức của đôi nam nữ 
trước họ hàng, những người xung quanh, đăng ký kế thôn là việc đôi nam nữ xác 
lập quan hệ hôn nhân theo quy định của pháp luật, là sự chính thức hóa quan hệ 
vợ chồng trước pháp 
luật.
Cùng với việc tổ chức cưới hỏi thì đăng ký 
kết hôn dần trở thành một trong các thủ tục không thể thiếu. Điều đó chứng tỏ sự 
gắn kết giữa ý thức cộng đồng, ý thức về sự tôn trọng luật pháp của người dân 
ngày càng được nâng lên đáng kể. Những năm gần đây, nhất là từ sau đổi mới, các 
mối quan hệ được mở rộng, cuộc sống người dân ngày càng có nhiều tình huống cần 
đến sự trợ giúp pháp lý, người dân ngày càng nhận thức đầy đủ hơn việc thừa nhận 
của pháp luật với vấn đề kết hôn hợp 
pháp.
Thực tế cho thấy, có nhiều cặp không đăng 
ký kết hôn khi cưới, sau nhiều năm chung sống với nhau, mâu thuẫn xảy ra thì 
chính quyền không có nhiệm vụ hòa giải, pháp luật cũng không thể giải quyết, hầu 
hết do họ hàng hai bên tác động. Người Tày cho rằng, trong trường hợp đó, người 
phụ nữ bao giờ cũng chịu thiệt thòi. Do đó, họ nhận thức được việc đăng ký kết 
hôn giúp họ đảm bảo đủ quyền lợi, trách nhiệm trong cuộc sống vợ chồng. Sự kết 
hợp giữa nghi thức phong tục với nghi thức pháp luật trong tổ chức cưới hỏi là 
một trong những sự biến đổi tích cực, tiến bộ trong hôn nhân và cưới xin của 
người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn hiện 
nay.
Quy mô tổ chức cưới 
hỏi
Quy mô tổ chức đám cưới của người Tày ngày 
càng lớn, không chỉ gia tăng về số lượng mâm cỗ mà chất lượng các món ăn trong 
cỗ cưới cũng ngày càng được người dân quan tâm, đầu tư hơn. Tìm hiểu nguyên nhân 
dẫn đến việc quy mô tổ chức đám cưới ngày càng lớn, phần lớn các ý kiến đều 
thống nhất cho rằng do hiện nay kinh tế phát triển, người dân có điều kiện, 
phương tiện vật chất để tổ chức cỗ bàn đàng hoàng hơn, sang trọng hơn. Ngoài ra, 
quá trình giao lưu, buôn bán, làm ăn, công tác… người dân nói chung, thanh niên 
nam nữ Tày nói riêng cũng có cơ hội mở rộng hơn các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh 
đó, tâm lý cho bằng anh, bằng em hay phú quý sinh lễ nghĩacũng vẫn chiếm tỷ lệ 
tương đối. Nguyên nhân vì mục đích kinh tế cũng có nhưng rất 
ít.
Như vậy, quy mô tổ chức đám cưới của người 
Tày ở Cao Lộc ngày càng lớn hơn, nhiều hình thức tổ chức đám cưới trong xã hội 
hiện đại, nhất là của người Kinh đã, đang được người Tày tiếp thu, đưa vào trong 
phong tục cưới hỏi của dân tộc 
mình.
Quà mừng trong đám 
cưới
Theo phong tục, trong đám cưới, khách mời 
đến dự thường mang theo một món quà, có thể là hiện vật hoặc là tiền, với ý 
nghĩa chúc phúc, chia sẻ niềm vui với cặp vợ chồng trẻ. Có thể nói, quà mừng 
trong đám cưới là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người Tày. Đây là 
một phong tục đẹp, lâu đời, ẩn chứa những giá trị văn hóa rất đặc 
trưng.
Về giá trị của tiền mừng, tùy theo từng 
giai đoạn, theo điều kiện kinh tế, mối quan hệ thân tình giữa khách với gia chủ. 
Thông thường hiện nay, tiền mừng đám cưới của người Tày ở Cao Lộc phổ biến ở mức 
200.000 đồng trở lên. Nếu người trong cùng dòng họ hoặc thân thiết hơn có thể 
400.000 - 500.000 
đồng.
Khi so sánh về giá trị của quà mừng trong 
đám cưới với chi phí bỏ ra tổ chức đám cưới, kết quả nghiên cứu cho thấy nếu chỉ 
tính riêng chi phí cho việc tổ chức ăn uống thì tiền mừng của khách mời đủ để 
trang trải. Tuy nhiên, để tổ chức đám cưới, gia đình còn phải chi thêm nhiều các 
dịch vụ khác: thuê phông bạt, loa đài, thuê áo cưới, xe đưa đón dâu, bàn ghế, 
trang trí, chụp ảnh… nên tiền mừng không thể đủ, nhất là với nhà trai còn phải 
chi thêm một khoản mang sang nhà 
gái.
Ẩm 
thực
Trong đám cưới của người Tày hiện nay, về 
cơ bản vẫn giữ được các món ăn truyền thống đặc biệt của dân tộc mình như khâu 
nhục, lợn quay, vịt quay, xôi màu… nhưng các món này cũng đều có ảnh hưởng mới 
từ Trung Quốc. Chẳng hạn như món khâu nhục xuất hiện thêm chất phụ gia nhập từ 
Trung Quốc mà đồng bào gọi là slao phẩu nhi, đã làm cho mùi vị món ăn khác hẳn 
so với trước đây. Món nước chấm xưa kia của đồng bào đã thay thế bằng xì dầu 
ngoại nhập, thậm chí có món ăn hoàn toàn nhập từ Trung Quốc như món ca ra thầu 
(rau sấy khô đóng 
hộp).
Một số món ăn truyền thống của người Tày 
gắn với nông nghiệp nương rẫy, săn bắt hái lượm đã, đang mai một dần, đó là các 
loại bánh trứng kiến (được làm từ trứng, đúng hơn là nhộng của loài kiến đen vào 
mùa xuân thường làm tổ đẻ trên các ngọn cây trong rừng), bánh bột đao, bột báng, 
bánh củ mài. Nhiều món ăn mới cũng xuất hiện do sống hội nhập, đan xen với các 
tộc người khác, chủ yếu là người Kinh. Trong các món ăn, thịt lợn quay, khâu 
nhục vẫn là món không thể thiếu được trong đám cưới người Tày. Ngoài ra, hiện 
nay còn có thêm những món như giò chả, gà, vịt, xào thập cẩm, tôm, nem, thịt 
đông, khoai tây chiên, canh bóng, 
mọc…
Trong cỗ cưới của người Tày hiện nay, không 
chỉ có 4, 5 món luộc, xào như trước mà mỗi mâm đã có từ 8 - 10 món. Cỗ cưới đã 
có nhiều cải thiện với nhiều món ăn ngon miệng, bổ dưỡng, cách chế biến cũng như 
bài trí món ăn. Họ không chỉ sử dụng những nguyên liệu sẵn có từ tự nhiên mà có 
thể mua thêm nhiều gia vị đóng sẵn như miến, hạt tiêu, tương ớt, phẩm màu cũng 
như các chất bảo quản khác. Cách chế biến ngoài xào, luộc thì có thêm các món 
nướng, hấp cách thủy, kho... giống như của người Kinh. Ngoài ra, trong mâm cỗ 
còn có thêm hoa quả để cho khách tráng miệng sau khi 
ăn.
Còn có cả dịch vụ tổ chức quay lợn để sử 
dụng trong đám cưới, thuê người nấu cỗ, mang đến tận nhà. Các loại bánh kẹo công 
nghiệp, đồ hộp, nước có ga cũng được đồng bào sử dụng phổ biến. Thuốc lá được sử 
dụng loại cuốn máy sẵn có trên thị trường. Bên cạnh loại rượu gạo tự nấu truyền 
thống, các đồ uống công nghiệp cũng xuất hiện. Trên các mâm cúng, xuất hiện 
nhiều bánh kẹo nhập khẩu từ nước 
ngoài.
Trang phục cô dâu, chú rể trong đám 
cưới
Trang phục là yếu tố thể hiện bản sắc văn 
hóa dân tộc, dễ nhận thấy nhất trong một tập hợp đa tộc người. Nhưng đó cũng là 
yếu tố văn hóa dễ biến đổi nhất trong xu thế đô thị hóa, hiện đại hóa như hiện 
nay.
Việc cô dâu, chú rể mặc trang phục truyền 
thống trong ngày cưới hiện nay giảm dần. Các đám cưới của người Tày ở huyện Cao 
Lộc cho thấy, hiện nay, hầu hết chú rể mặc quần âu, áo sơ mi, thắt cà vạt, cài 
hoa; cô dâu mặc váy trắng, tóc quấn xoăn, trang điểm, tay cầm hoa theo xu hướng 
hiện đại. Những người tham gia lễ cưới hiện nay cũng có sự thay đổi trong cách 
ăn mặc. Họ thích mặc áo dài, váy như người Kinh để đi dự đám cưới cho đẹp, hiện 
đại. Một yếu tố khác nữa là nhiều người quan niệm mặc trang phục truyền thống 
lạc hậu, không đẹp, không lịch sự. Chính vì thế, người Tày từ lâu đã mặc quần áo 
như người 
Kinh.
Có thể thấy, trang phục cưới của cô dâu, 
chú rể là một trong những lĩnh vực biến đổi mạnh mẽ nhất, dễ nhận ra nhất. Xu 
hướng Âu hóa thông qua sự tiếp nhận của người Kinh đã tác động mạnh mẽ đến văn 
hóa Tày. Xu hướng này được giới trẻ hào hứng đón nhận. Giờ đây, nếu chỉ nhìn vào 
bộ trang phục cô dâu, chú rể thì không thể phân biệt đâu là đám cưới của người 
Tày, đâu là đám cưới người 
Kinh.
Của hồi môn của cô dâu, chú 
rể
Cũng như nhiều dân tộc khác, theo phong tục 
truyền thống của người Tày, khi lập gia đình, con cái thường được cha mẹ trao 
cho của hồi môn như là một chút tài sản để làm vốn liếng khi bước vào cuộc sống 
gia đình. Của hồi môn có thể là tiền, vàng, vật dụng gia đình, gia súc, đất đai, 
nhà cửa… Thực tế cho thấy, cuộc sống của đồng bào các dân tộc miền núi nói 
chung, trong đó có người Tày ở Cao Lộc nói riêng còn rất khó khăn, nên khi con 
cái xây dựng gia đình, bố mẹ không có nhiều tài sản có giá trị cho làm của hồi 
môn. Chủ yếu, nếu con gái đi lấy chồng thì cho một vài chỉ vàng hoặc ít tiền. 
Con trai lấy vợ thì ngoài vàng, ít tiền thì bố mẹ sắm sửa cho một ít đồ dùng 
trong gia đình, phương tiện đi 
lại...
Thời gian gần đây, của hồi môn mà cô dâu, 
chủ rể nhận được bằng vàng, tiền mặt tăng lên đáng kể. Của hồi môn là vật dụng 
gia đình tuy có giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ đáng kể. Từ năm 1987 trở lại đây, gia 
súc không còn là của hồi môn của cha mẹ cho con cái khi xây dựng gia đình 
nữa.
Quá trình hội nhập đang làm biến đổi mạnh mẽ tập quán 
cưới xin truyền thống của người Tày ở Cao Lộc trên tất cả các phương diện: quy mô, hình thức, nội dung tổ chức cưới 
hỏi. Một trong những biểu hiện dễ thấy nhất là lược bớt các thủ tục, nghi lễ 
rườm rà không còn phù hợp với xã hội hiện đại. Ngoài ra, xu hướng nổi trội trong 
tập quán cưới xin của người Tày ở Lạng Sơn hiện nay là tiếp thu, du nhập nhiều 
hình thức, nghi lễ cưới hỏi của các dân tộc khác, nhất là của người Kinh. Có thể 
nói, đây là sự biến đổi theo xu hướng tiến bộ, tích cực, hiện đại. Tuy vậy, dù 
tập quán cưới xin của người Tày có biến đổi đến mức độ nào thì vấn đề bảo tồn 
những giá trị tốt đẹp, làm cốt lõi cho bản sắc văn hóa tộc người vẫn cần được 
quan tâm gìn giữ, phát huy để văn hóa Tày không bị pha loãng, mai một, mà còn 
phát triển bền vững trong xã hội đương đại.
 GIANG THỊ 
HUYỀN





