Trong hôn nhân, con gái Nùng được đề cao, nhà trai phải
đáp ứng đủ các lễ như: Lễ dạm hỏi, lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt và một số tục
lệ khác. Có như vậy cô con dâu tương lai mới có giá, được coi trọng và làm vẻ
vang cho cha mẹ, họ hàng. Theo tục lệ truyền thống người Nùng không có tập quán
ăn hỏi là cưới ngay, phía nhà trai bao giờ cũng phải chờ đợi một thời gian.
Người Nùng cũng giống người Tày nhà có nhiều con gái, cô chị hay cô em cưới
trước đều được, không quy định chị phải cưới trước em.
Hôn nhân của người Nùng phải tuân thủ theo
các bước như sau: Gặp gỡ hai họ, người Nùng cho phép con cái được tự do lựa chọn
chồng, vợ cho mình, sau đó phải được bố mẹ đồng ý và gặp gỡ đôi bên cho “danh
chính ngôn thuận”, nếu không sẽ bị xem là tự ý, không theo khuôn phép, làng xóm
sẽ chê bai và coi rẻ. Cuộc gặp này do chính cha mẹ người con trai hoặc người đại
diện nhà trai đến gặp gỡ bố mẹ cô gái. Nếu thuận lợi cha mẹ chàng trai sẽ tiến
hành lễ dạm hỏi. Lễ dạm hỏi được tiến hành vào ngày chẵn theo âm lịch, nhưng
cũng kiêng những ngày cấm kị. Nhà trai trình bản so mệnh hợp nhau của đôi trai,
gái sau đó nhà trai xin bản lục mệnh chính thức (lá số tử vi) của cô gái. Bản
lục mệnh này được viết trên giấy hồng điều. Như vậy lễ đính hôn chính thức được
công nhận. Người Nùng Phàn Sình quan niệm rằng nếu trên đường đi làm lễ dạm
hỏi gặp rắn là tốt nếu gặp người đàn bà gội đầu hoặc nghe thấy tiếng tu hú kêu
trên đường đi là gặp điều xui xẻo. Lễ ăn hỏi được tiến hành sau lễ dạm hỏi ít
nhất một vài tháng. Đó là ngày lễ trang trọng để định ngày ăn hỏi cho nhà trai
đưa ra. Để nhà gái có thời gian chuẩn bị mời họ hàng xa gần, bạn tồng tới dự,
nhà trai báo trước khoảng 1 tháng. Trong ngày này nhà trai, nhà gái bàn những
việc hệ trọng như: Định lễ vật cưới là những gì, của hồi môn, ngày, tháng, năm
cưới, ngày giờ đón cô dâu… Lễ ăn hỏi thường gồm đôi gà sống thiến, rượu, thịt
lợn, gạo nếp, và bánh dày. Cùng đi với gia đình, họ hàng nhà trai là ông mối. Vì
ăn hỏi sớm, lại không cưới ngay trong ngày tết truyền thống của người Nùng phía
nhà trai phải tuân theo tục lệ sêu tết nhà gái. Tục sêu tết này là điều khẳng
định sự gắn bó giữa hai gia đình, là cách làm thân giữa hai họ. Người Nùng có
hai ngày tết cổ truyền là Tết Nguyên đán và Tết Rằm tháng bảy âm lịch. Nhà trai
phải sêu tết đều đặn các ngày này như nhau cho đến ngày làm lễ cưới. Theo phong
tục, Tết Nguyên đán vào đầu xuân nên nhà trai phải mang lễ vật là hai con gà
sống thiến to và béo. Tết Rằm tháng bảy vào mùa hè phải sêu bằng vịt bầu to, béo
mập, vài ống gạo nếp, hai cân thịt lợn, hai chai rượu trắng. Lễ vật phải mang
đến nhà gái trước các ngày tết từ 5 đến 7 ngày. Đến lễ báo ngày cưới, nhà trai
mang lễ vật gồm: thịt, gạo nếp, rượu, bánh dày trên hai chiếc mâm, bày ra để họ
hàng nhà gái chứng kiến. Trước đông đủ họ nhà gái, nhà trai trao số tiền mặt đã
được quy định trong lễ ăn hỏi cho nhà gái để nhà gái mua sắm thêm: Chăn màn,
quần áo, hòm, giường, chậu thau, mâm đồng, bát đĩa…Chính lễ báo ngày cưới này
xác định không thay đổi về ngày làm lễ cưới, giờ đón dâu. Trước kia, ở lễ cưới
hai bên nhà trai, nhà gái ăn uống linh đình suốt ba ngày, giờ đã giảm đi
nhiều.Tập quán chung của người Nùng là ngày đầu ăn cưới ở nhà gái, sang ngày thứ
hai ở nhà trai nhưng nhiều nơi tiến hành giống như lễ cưới của người Tày. Đến Lễ
đón dâu, đưa dâu, nhà trai sang nhà gái thành đoàn, dẫn đầu là ông mối hoặc bà
mối, rồi đến chú rể và các bạn chú rể, hai chàng trai khiêng một con lợn quay
vàng óng, một cậu con trai gánh xôi, một cô gái gánh tám con gà sống thiến, một
con gà luộc, một dải lụa hồng và một mảnh vải đẹp, bước ra khỏi nhà kiêng kị
không ai được giẫm lên bậc cửa. Dân tộc Nùng có tục chăng dây đòi tiền đón dâu.
ở đầu xóm lũ trẻ chăng dây ngang lối đi đòi nhà trai cho tiền mừng mới mở đường.
Đàn ông trong đoàn nhà trai được ngồi ở gian ngoài dành cho nam, các cô và các
cháu bé mang sính lễ vào nhà rồi ngồi ở gian dành cho nữ. Lễ trình tổ tiên, thầy
đón rể và thầy đưa rể đứng trước bàn thờ, chú rể đứng giữa. Châm hai ngọn nến
lên bàn thờ. Họ hàng nội ngoại cô dâu ngồi thành hai hàng trước bàn thờ theo thứ
tự trong họ tộc. Chú rể vái họ hàng nhà gái và mời trầu cau cho nữ, mời rượu cho
nam theo thứ tự. Mọi người mừng lại chú rể chủ yếu bằng tiền. Khi đưa dâu theo
phong tục chiếc ô che đầu luôn là thứ che chở cho cô dâu khỏi sự quấy nhiêu của
tà ma. Tới cửa nhà trai, người bên nhà trai làm lễ tẩy trần cho cô dâu. ông chú
hay bác rể dùng cành lá bưởi vẩy vài giọt nước vào chân cô dâu. Cô dâu đến bàn
thờ tổ tiên lễ và họ hàng bên nhà chồng cùng ngồi hai bên theo thứ tự giống như
ở nhà gái. Cô dâu lễ họ hàng và mỗi người trong họ hàng đều mừng tiền cho cô
dâu. Ba ngày sau hôm cưới, đôi vợ chồng trẻ về thăm bố mẹ vợ gọi là lễ lại mặt.
Lễ vật mang theo gồm đôi gà sống thiến, thịt lợn, rượu, một ít xôi, chè, thuốc
lá. Chàng rể ở lại nhà vợ một ngày và đi thăm khắp họ hàng nhà vợ để nhận mặt.
Khi đôi vợ chồng trẻ trở lại nhà trai thì nhà gái sẽ chia một nửa số lễ vật trên
để nhà trai đem về chia cho họ
hàng.
Ngày nay nhiều thủ tục rườm rà trong hôn lễ
của người Nùng đã được rút gọn, trai gái có thời gian tìm hiều và đến với nhau
bằng tình yêu. Hầu hết các đôi trai gái khi kết hôn đều đủ tuổi kết hôn, các
nghi lễ được rút gọn, việc cưới xin đã từng bước theo lối sống mới, không cầu
kì, tốn
kém.
Mai Thúy Hằng
Trong hôn nhân, con gái Nùng được đề cao, nhà trai phải
đáp ứng đủ các lễ như: Lễ dạm hỏi, lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt và một số tục
lệ khác. Có như vậy cô con dâu tương lai mới có giá, được coi trọng và làm vẻ
vang cho cha mẹ, họ hàng. Theo tục lệ truyền thống người Nùng không có tập quán
ăn hỏi là cưới ngay, phía nhà trai bao giờ cũng phải chờ đợi một thời gian.
Người Nùng cũng giống người Tày nhà có nhiều con gái, cô chị hay cô em cưới
trước đều được, không quy định chị phải cưới trước em.
Hôn nhân của người Nùng phải tuân thủ theo
các bước như sau: Gặp gỡ hai họ, người Nùng cho phép con cái được tự do lựa chọn
chồng, vợ cho mình, sau đó phải được bố mẹ đồng ý và gặp gỡ đôi bên cho “danh
chính ngôn thuận”, nếu không sẽ bị xem là tự ý, không theo khuôn phép, làng xóm
sẽ chê bai và coi rẻ. Cuộc gặp này do chính cha mẹ người con trai hoặc người đại
diện nhà trai đến gặp gỡ bố mẹ cô gái. Nếu thuận lợi cha mẹ chàng trai sẽ tiến
hành lễ dạm hỏi. Lễ dạm hỏi được tiến hành vào ngày chẵn theo âm lịch, nhưng
cũng kiêng những ngày cấm kị. Nhà trai trình bản so mệnh hợp nhau của đôi trai,
gái sau đó nhà trai xin bản lục mệnh chính thức (lá số tử vi) của cô gái. Bản
lục mệnh này được viết trên giấy hồng điều. Như vậy lễ đính hôn chính thức được
công nhận. Người Nùng Phàn Sình quan niệm rằng nếu trên đường đi làm lễ dạm
hỏi gặp rắn là tốt nếu gặp người đàn bà gội đầu hoặc nghe thấy tiếng tu hú kêu
trên đường đi là gặp điều xui xẻo. Lễ ăn hỏi được tiến hành sau lễ dạm hỏi ít
nhất một vài tháng. Đó là ngày lễ trang trọng để định ngày ăn hỏi cho nhà trai
đưa ra. Để nhà gái có thời gian chuẩn bị mời họ hàng xa gần, bạn tồng tới dự,
nhà trai báo trước khoảng 1 tháng. Trong ngày này nhà trai, nhà gái bàn những
việc hệ trọng như: Định lễ vật cưới là những gì, của hồi môn, ngày, tháng, năm
cưới, ngày giờ đón cô dâu… Lễ ăn hỏi thường gồm đôi gà sống thiến, rượu, thịt
lợn, gạo nếp, và bánh dày. Cùng đi với gia đình, họ hàng nhà trai là ông mối. Vì
ăn hỏi sớm, lại không cưới ngay trong ngày tết truyền thống của người Nùng phía
nhà trai phải tuân theo tục lệ sêu tết nhà gái. Tục sêu tết này là điều khẳng
định sự gắn bó giữa hai gia đình, là cách làm thân giữa hai họ. Người Nùng có
hai ngày tết cổ truyền là Tết Nguyên đán và Tết Rằm tháng bảy âm lịch. Nhà trai
phải sêu tết đều đặn các ngày này như nhau cho đến ngày làm lễ cưới. Theo phong
tục, Tết Nguyên đán vào đầu xuân nên nhà trai phải mang lễ vật là hai con gà
sống thiến to và béo. Tết Rằm tháng bảy vào mùa hè phải sêu bằng vịt bầu to, béo
mập, vài ống gạo nếp, hai cân thịt lợn, hai chai rượu trắng. Lễ vật phải mang
đến nhà gái trước các ngày tết từ 5 đến 7 ngày. Đến lễ báo ngày cưới, nhà trai
mang lễ vật gồm: thịt, gạo nếp, rượu, bánh dày trên hai chiếc mâm, bày ra để họ
hàng nhà gái chứng kiến. Trước đông đủ họ nhà gái, nhà trai trao số tiền mặt đã
được quy định trong lễ ăn hỏi cho nhà gái để nhà gái mua sắm thêm: Chăn màn,
quần áo, hòm, giường, chậu thau, mâm đồng, bát đĩa…Chính lễ báo ngày cưới này
xác định không thay đổi về ngày làm lễ cưới, giờ đón dâu. Trước kia, ở lễ cưới
hai bên nhà trai, nhà gái ăn uống linh đình suốt ba ngày, giờ đã giảm đi
nhiều.Tập quán chung của người Nùng là ngày đầu ăn cưới ở nhà gái, sang ngày thứ
hai ở nhà trai nhưng nhiều nơi tiến hành giống như lễ cưới của người Tày. Đến Lễ
đón dâu, đưa dâu, nhà trai sang nhà gái thành đoàn, dẫn đầu là ông mối hoặc bà
mối, rồi đến chú rể và các bạn chú rể, hai chàng trai khiêng một con lợn quay
vàng óng, một cậu con trai gánh xôi, một cô gái gánh tám con gà sống thiến, một
con gà luộc, một dải lụa hồng và một mảnh vải đẹp, bước ra khỏi nhà kiêng kị
không ai được giẫm lên bậc cửa. Dân tộc Nùng có tục chăng dây đòi tiền đón dâu.
ở đầu xóm lũ trẻ chăng dây ngang lối đi đòi nhà trai cho tiền mừng mới mở đường.
Đàn ông trong đoàn nhà trai được ngồi ở gian ngoài dành cho nam, các cô và các
cháu bé mang sính lễ vào nhà rồi ngồi ở gian dành cho nữ. Lễ trình tổ tiên, thầy
đón rể và thầy đưa rể đứng trước bàn thờ, chú rể đứng giữa. Châm hai ngọn nến
lên bàn thờ. Họ hàng nội ngoại cô dâu ngồi thành hai hàng trước bàn thờ theo thứ
tự trong họ tộc. Chú rể vái họ hàng nhà gái và mời trầu cau cho nữ, mời rượu cho
nam theo thứ tự. Mọi người mừng lại chú rể chủ yếu bằng tiền. Khi đưa dâu theo
phong tục chiếc ô che đầu luôn là thứ che chở cho cô dâu khỏi sự quấy nhiêu của
tà ma. Tới cửa nhà trai, người bên nhà trai làm lễ tẩy trần cho cô dâu. ông chú
hay bác rể dùng cành lá bưởi vẩy vài giọt nước vào chân cô dâu. Cô dâu đến bàn
thờ tổ tiên lễ và họ hàng bên nhà chồng cùng ngồi hai bên theo thứ tự giống như
ở nhà gái. Cô dâu lễ họ hàng và mỗi người trong họ hàng đều mừng tiền cho cô
dâu. Ba ngày sau hôm cưới, đôi vợ chồng trẻ về thăm bố mẹ vợ gọi là lễ lại mặt.
Lễ vật mang theo gồm đôi gà sống thiến, thịt lợn, rượu, một ít xôi, chè, thuốc
lá. Chàng rể ở lại nhà vợ một ngày và đi thăm khắp họ hàng nhà vợ để nhận mặt.
Khi đôi vợ chồng trẻ trở lại nhà trai thì nhà gái sẽ chia một nửa số lễ vật trên
để nhà trai đem về chia cho họ
hàng.
Ngày nay nhiều thủ tục rườm rà trong hôn lễ
của người Nùng đã được rút gọn, trai gái có thời gian tìm hiều và đến với nhau
bằng tình yêu. Hầu hết các đôi trai gái khi kết hôn đều đủ tuổi kết hôn, các
nghi lễ được rút gọn, việc cưới xin đã từng bước theo lối sống mới, không cầu
kì, tốn
kém.
Mai Thúy Hằng