Người
Nùng có bản sắc văn hoá và phong tục tập quán riêng, do vậy trong đám cưới của
họ cũng có nhiều nét độc đáo. Trước đây, trai gái người Nùng lấy nhau thường là
do cha mẹ sắp đặt, theo quy luật vận động phù hợp với cuộc sống, nhiều hủ tục đã
được lược bỏ, trai gái người Nùng được tự do tìm hiểu để xây dựng gia
đình.
Trai
gái người Nùng khi bước vào tuổi hôn nhân khoảng 15-16 tuổi thường tìm hiểu nhau
qua các buổi đi nương rẫy, tham gia các lễ hội và tỏ tình qua các làn điệu hát
Sli , điệu hát lượn trong ngày hội. Trong đời sống, việc hôn nhân đối với người
Nùng là rất hệ trọng. Người Nùng cho phép con cái được tự do lựa chọn chồng, vợ
cho mình, nhưng sau đó phải được bố mẹ hai bên gặp gỡ nhau đồng ý. Ông Lương Văn
Thiết, cán bộ nghiên cứu văn hoá dân tộc Nùng ở Bảo tàng Dân tộc học Việt nam,
cho biết: “Khi đôi trai gái đã lựa chọn được người bạn đời ưng ý để tiến tới hôn
nhân thì đôi trai gái sẽ phải lấy một vật làm tin. Có thể chàng trai sẽ lấy một
cái mũ, hay cái vòng đeo tay, cô gái cũng vậy có thể lấy một cái khăn để làm tin
về báo hiệu cho gia đình. Sau khi được chàng trai thông báo thì gia đình nhà
trai sẽ tìm hiểu thêm về gia đình cô gái đó, xem gia đình cô gái đó có “căn bản”
hay không, cố gái đó chăm chỉ hay không? và một việc rất quan trọng với người
Nùng là khi con trai lấy vợ thì phải sinh được con, do vậy nhà trai còn phải xem
cô gái đó có khoẻ mạnh không? Nếu gia đình bên đó đông con, thì cô gái đó càng
dễ sinh con.” Nếu mọi việc thuận lợi hai bên mới bàn bạc tiến hành các bước chuẩn bị cho lễ cưới. Trong hôn nhân, con gái Nùng được đề cao, nhà trai phải đáp ứng đủ các lễ như: Lễ dạm hỏi, lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt và một số tục lệ khác. Có như vậy cô con dâu tương lai mới có giá, được coi trọng và làm vẻ vang cho cha mẹ, họ hàng. Lễ ăn hỏi được tiến hành sau lễ dạm hỏi ít nhất một vài tháng. Trong ngày này nhà trai, nhà gái bàn những việc : lễ vật cưới là những gì, của hồi môn, định ngày cưới, giờ đón cô dâu…
Đám cưới của người Nùng thường được tổ chức trong 3 ngày và nhiều thủ tục của lễ cưới truyền thống vẫn được duy trì. Theo phong tục, họ nhà trai phải chọn một “ ông đón” và họ nhà gái phải chọn“ ông đưa”. Ông đón và ông đưa đều phải là người có gia đình hạnh phúc, đủ cả hai vợ chồng, có đầy đủ con trai con gái. Ông Lộc Công Hùng người Nùng ở Lạng Sơn, từng được mời làm ông đón trong đám cưới, cho biết: “Theo phong tục của người Nùng ở đây trong lễ đón dâu nhất định phải có con lợn quay. Còn trong lễ đón chính thức đưa cháu dâu về nhà chồng thì phải có cỗ xôi và con gà. Theo phong tục hai ông đưa và ông đón phải gặp nhau từ tối hôm trước để chuẩn bị cho lễ đưa đón dâu.”
Lễ đón dâu, đưa dâu, nhà trai sang nhà gái thành đoàn, dẫn đầu nhà trai là ông đón, một bà cô tượng trưng cho phúc đức nhà chồng, rồi đến chú rể và các bạn chú rể, hai chàng trai khiêng một con lợn quay vàng óng, một cậu con trai gánh xôi, một cô gái gánh tám con gà sống thiến, một con gà luộc, một dải lụa hồng và một mảnh vải đẹp. Dân tộc Nùng trước đây còn có tục khi đến gần cửa nhà gái có đám trẻ con chăng dây ngang lối đi đòi nhà trai cho tiền mừng mới mở đường. Khi tới trước cổng nhà gái, thì người dẫn đầu đoàn nhà trai thường hát một điệu Sli để đánh tiếng cho họ nhà gái biết. Nhà gái cử một người đại diện ra xem đã đầy đủ các lễ vật theo yêu cầu của của nhà gái chưa rồi mới mời vào.
Nhà gái nhận lễ xong thì tiến hành lễ trình báo tổ tiên. Ông thày cúng bên nhà gái viết tên tuổi cô dâu, chú rể lên một lá bùa rồi lấy băng giấy hồng buộc lại, tượng trưng cho ông tơ bà nguyệt đã se duyên đôi lứa. Thày cúng cầu khấn ông bà tổ tiên phù hộ cho đôi bạn trẻ hạnh phúc. Chú rể giữ được gia phong còn cô dâu giữ được nét nết na hiền thục ở nhà chồng.
Khác với một số dân tộc khác, người Nùng có con gái đi lấy chồng, thì cha mẹ cô gái phải sắm đầy đủ tiện nghi cho một gia đình như: tủ, giường chiếu, chăn màn, quần áo, nôi niêu, bát đĩa. Ông Hoàng Triệu dân tộc Nùng ở xã Chi Lăng Lạng Sơn cho biết: “Khi đưa cháu đi về nhà chồng, theo phong tục trước đây phải có các hòm quần áo, khăn mặt, các đồ hồi môn đi theo. Bây giờ các thứ đồ hồi môn ấy được mang đi trước rồi. Đưa cháu đến nơi còn phải làm lễ thắp hương nhập họ cho cháu” .
Tới cửa
nhà trai, cô dâu được người bên nhà trai làm lễ tẩy trần vẩy vài giọt nước vào
chân. Theo tục lệ chú rể phải là người bước chân vào nhà trước để chứng tỏ mình
là chủ gia đình. Cô dâu được đưa đến bàn thờ tổ tiên lễ và nhà trai làm lễ nhập
họ cho cô dâu. Người Nùng cũng có tục lệ chọn người phụ nữ đức hạnh, có gia đình
hạnh phúc, có đủ con trai con gái để trải chiếu trong buồng cô dâu, chú rể. Đây
là phong tục mang tính tượng trưng với ý nghĩa cầu mong cho đôi trai gái hạnh
phúc, mau có con cái nối dõi tông
đường.
Ngày nay nhiều thủ tục rườm rà trong hôn lễ của người Nùng đã được rút gọn, trai gái có thời gian tìm hiểu và đến với nhau bằng tình yêu. Hầu hết các đôi trai gái khi kết hôn đều đủ tuổi kết hôn, các nghi lễ được rút gọn, việc cưới xin đã từng bước theo lối sống mới, không cầu kì, tốn kém.
Tô Tuấn
Theo tục lệ của người
Nùng, sau khi thiếu nữ Nùng nhận tín vật tình yêu, nhà trai mới được làm lễ dạm hỏi, và phải chờ đợi một thời gian
mới được dẫn
cưới và đón
dâu..
Nếu mọi việc thuận lợi hai bên mới bàn bạc tiến hành các bước chuẩn bị cho lễ cưới. Trong hôn nhân, con gái Nùng được đề cao, nhà trai phải đáp ứng đủ các lễ như: Lễ dạm hỏi, lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt và một số tục lệ khác. Có như vậy cô con dâu tương lai mới có giá, được coi trọng và làm vẻ vang cho cha mẹ, họ hàng. Lễ ăn hỏi được tiến hành sau lễ dạm hỏi ít nhất một vài tháng. Trong ngày này nhà trai, nhà gái bàn những việc : lễ vật cưới là những gì, của hồi môn, định ngày cưới, giờ đón cô dâu…
Đám cưới của người Nùng thường được tổ chức trong 3 ngày và nhiều thủ tục của lễ cưới truyền thống vẫn được duy trì. Theo phong tục, họ nhà trai phải chọn một “ ông đón” và họ nhà gái phải chọn“ ông đưa”. Ông đón và ông đưa đều phải là người có gia đình hạnh phúc, đủ cả hai vợ chồng, có đầy đủ con trai con gái. Ông Lộc Công Hùng người Nùng ở Lạng Sơn, từng được mời làm ông đón trong đám cưới, cho biết: “Theo phong tục của người Nùng ở đây trong lễ đón dâu nhất định phải có con lợn quay. Còn trong lễ đón chính thức đưa cháu dâu về nhà chồng thì phải có cỗ xôi và con gà. Theo phong tục hai ông đưa và ông đón phải gặp nhau từ tối hôm trước để chuẩn bị cho lễ đưa đón dâu.”
Lễ đón dâu, đưa dâu, nhà trai sang nhà gái thành đoàn, dẫn đầu nhà trai là ông đón, một bà cô tượng trưng cho phúc đức nhà chồng, rồi đến chú rể và các bạn chú rể, hai chàng trai khiêng một con lợn quay vàng óng, một cậu con trai gánh xôi, một cô gái gánh tám con gà sống thiến, một con gà luộc, một dải lụa hồng và một mảnh vải đẹp. Dân tộc Nùng trước đây còn có tục khi đến gần cửa nhà gái có đám trẻ con chăng dây ngang lối đi đòi nhà trai cho tiền mừng mới mở đường. Khi tới trước cổng nhà gái, thì người dẫn đầu đoàn nhà trai thường hát một điệu Sli để đánh tiếng cho họ nhà gái biết. Nhà gái cử một người đại diện ra xem đã đầy đủ các lễ vật theo yêu cầu của của nhà gái chưa rồi mới mời vào.
Nhà gái nhận lễ xong thì tiến hành lễ trình báo tổ tiên. Ông thày cúng bên nhà gái viết tên tuổi cô dâu, chú rể lên một lá bùa rồi lấy băng giấy hồng buộc lại, tượng trưng cho ông tơ bà nguyệt đã se duyên đôi lứa. Thày cúng cầu khấn ông bà tổ tiên phù hộ cho đôi bạn trẻ hạnh phúc. Chú rể giữ được gia phong còn cô dâu giữ được nét nết na hiền thục ở nhà chồng.
Khác với một số dân tộc khác, người Nùng có con gái đi lấy chồng, thì cha mẹ cô gái phải sắm đầy đủ tiện nghi cho một gia đình như: tủ, giường chiếu, chăn màn, quần áo, nôi niêu, bát đĩa. Ông Hoàng Triệu dân tộc Nùng ở xã Chi Lăng Lạng Sơn cho biết: “Khi đưa cháu đi về nhà chồng, theo phong tục trước đây phải có các hòm quần áo, khăn mặt, các đồ hồi môn đi theo. Bây giờ các thứ đồ hồi môn ấy được mang đi trước rồi. Đưa cháu đến nơi còn phải làm lễ thắp hương nhập họ cho cháu” .
Ngày nay nhiều thủ tục rườm rà trong hôn lễ của người Nùng đã được rút gọn, trai gái có thời gian tìm hiểu và đến với nhau bằng tình yêu. Hầu hết các đôi trai gái khi kết hôn đều đủ tuổi kết hôn, các nghi lễ được rút gọn, việc cưới xin đã từng bước theo lối sống mới, không cầu kì, tốn kém.
Người
Nùng có bản sắc văn hoá và phong tục tập quán riêng, do vậy trong đám cưới của
họ cũng có nhiều nét độc đáo. Trước đây, trai gái người Nùng lấy nhau thường là
do cha mẹ sắp đặt, theo quy luật vận động phù hợp với cuộc sống, nhiều hủ tục đã
được lược bỏ, trai gái người Nùng được tự do tìm hiểu để xây dựng gia
đình.
Trai
gái người Nùng khi bước vào tuổi hôn nhân khoảng 15-16 tuổi thường tìm hiểu nhau
qua các buổi đi nương rẫy, tham gia các lễ hội và tỏ tình qua các làn điệu hát
Sli , điệu hát lượn trong ngày hội. Trong đời sống, việc hôn nhân đối với người
Nùng là rất hệ trọng. Người Nùng cho phép con cái được tự do lựa chọn chồng, vợ
cho mình, nhưng sau đó phải được bố mẹ hai bên gặp gỡ nhau đồng ý. Ông Lương Văn
Thiết, cán bộ nghiên cứu văn hoá dân tộc Nùng ở Bảo tàng Dân tộc học Việt nam,
cho biết: “Khi đôi trai gái đã lựa chọn được người bạn đời ưng ý để tiến tới hôn
nhân thì đôi trai gái sẽ phải lấy một vật làm tin. Có thể chàng trai sẽ lấy một
cái mũ, hay cái vòng đeo tay, cô gái cũng vậy có thể lấy một cái khăn để làm tin
về báo hiệu cho gia đình. Sau khi được chàng trai thông báo thì gia đình nhà
trai sẽ tìm hiểu thêm về gia đình cô gái đó, xem gia đình cô gái đó có “căn bản”
hay không, cố gái đó chăm chỉ hay không? và một việc rất quan trọng với người
Nùng là khi con trai lấy vợ thì phải sinh được con, do vậy nhà trai còn phải xem
cô gái đó có khoẻ mạnh không? Nếu gia đình bên đó đông con, thì cô gái đó càng
dễ sinh con.” Nếu mọi việc thuận lợi hai bên mới bàn bạc tiến hành các bước chuẩn bị cho lễ cưới. Trong hôn nhân, con gái Nùng được đề cao, nhà trai phải đáp ứng đủ các lễ như: Lễ dạm hỏi, lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt và một số tục lệ khác. Có như vậy cô con dâu tương lai mới có giá, được coi trọng và làm vẻ vang cho cha mẹ, họ hàng. Lễ ăn hỏi được tiến hành sau lễ dạm hỏi ít nhất một vài tháng. Trong ngày này nhà trai, nhà gái bàn những việc : lễ vật cưới là những gì, của hồi môn, định ngày cưới, giờ đón cô dâu…
Đám cưới của người Nùng thường được tổ chức trong 3 ngày và nhiều thủ tục của lễ cưới truyền thống vẫn được duy trì. Theo phong tục, họ nhà trai phải chọn một “ ông đón” và họ nhà gái phải chọn“ ông đưa”. Ông đón và ông đưa đều phải là người có gia đình hạnh phúc, đủ cả hai vợ chồng, có đầy đủ con trai con gái. Ông Lộc Công Hùng người Nùng ở Lạng Sơn, từng được mời làm ông đón trong đám cưới, cho biết: “Theo phong tục của người Nùng ở đây trong lễ đón dâu nhất định phải có con lợn quay. Còn trong lễ đón chính thức đưa cháu dâu về nhà chồng thì phải có cỗ xôi và con gà. Theo phong tục hai ông đưa và ông đón phải gặp nhau từ tối hôm trước để chuẩn bị cho lễ đưa đón dâu.”
Lễ đón dâu, đưa dâu, nhà trai sang nhà gái thành đoàn, dẫn đầu nhà trai là ông đón, một bà cô tượng trưng cho phúc đức nhà chồng, rồi đến chú rể và các bạn chú rể, hai chàng trai khiêng một con lợn quay vàng óng, một cậu con trai gánh xôi, một cô gái gánh tám con gà sống thiến, một con gà luộc, một dải lụa hồng và một mảnh vải đẹp. Dân tộc Nùng trước đây còn có tục khi đến gần cửa nhà gái có đám trẻ con chăng dây ngang lối đi đòi nhà trai cho tiền mừng mới mở đường. Khi tới trước cổng nhà gái, thì người dẫn đầu đoàn nhà trai thường hát một điệu Sli để đánh tiếng cho họ nhà gái biết. Nhà gái cử một người đại diện ra xem đã đầy đủ các lễ vật theo yêu cầu của của nhà gái chưa rồi mới mời vào.
Nhà gái nhận lễ xong thì tiến hành lễ trình báo tổ tiên. Ông thày cúng bên nhà gái viết tên tuổi cô dâu, chú rể lên một lá bùa rồi lấy băng giấy hồng buộc lại, tượng trưng cho ông tơ bà nguyệt đã se duyên đôi lứa. Thày cúng cầu khấn ông bà tổ tiên phù hộ cho đôi bạn trẻ hạnh phúc. Chú rể giữ được gia phong còn cô dâu giữ được nét nết na hiền thục ở nhà chồng.
Khác với một số dân tộc khác, người Nùng có con gái đi lấy chồng, thì cha mẹ cô gái phải sắm đầy đủ tiện nghi cho một gia đình như: tủ, giường chiếu, chăn màn, quần áo, nôi niêu, bát đĩa. Ông Hoàng Triệu dân tộc Nùng ở xã Chi Lăng Lạng Sơn cho biết: “Khi đưa cháu đi về nhà chồng, theo phong tục trước đây phải có các hòm quần áo, khăn mặt, các đồ hồi môn đi theo. Bây giờ các thứ đồ hồi môn ấy được mang đi trước rồi. Đưa cháu đến nơi còn phải làm lễ thắp hương nhập họ cho cháu” .
Tới cửa
nhà trai, cô dâu được người bên nhà trai làm lễ tẩy trần vẩy vài giọt nước vào
chân. Theo tục lệ chú rể phải là người bước chân vào nhà trước để chứng tỏ mình
là chủ gia đình. Cô dâu được đưa đến bàn thờ tổ tiên lễ và nhà trai làm lễ nhập
họ cho cô dâu. Người Nùng cũng có tục lệ chọn người phụ nữ đức hạnh, có gia đình
hạnh phúc, có đủ con trai con gái để trải chiếu trong buồng cô dâu, chú rể. Đây
là phong tục mang tính tượng trưng với ý nghĩa cầu mong cho đôi trai gái hạnh
phúc, mau có con cái nối dõi tông
đường.
Ngày nay nhiều thủ tục rườm rà trong hôn lễ của người Nùng đã được rút gọn, trai gái có thời gian tìm hiểu và đến với nhau bằng tình yêu. Hầu hết các đôi trai gái khi kết hôn đều đủ tuổi kết hôn, các nghi lễ được rút gọn, việc cưới xin đã từng bước theo lối sống mới, không cầu kì, tốn kém.
Tô Tuấn