Trang phục Lễ
hội của người dân tộc Nùng.
Số là vào năm 1955, một cuộc chiến
ngay giữa Đô Thành Sài Gòn, Quân Đội Quốc Gia, các đơn vị người Nùng tác chiến
dũng cảm, gan dạ đã đánh tan lực lượng võ trang Bình Xuyên ở vùng Chợ Lớn, đồng
thời chiếm luôn tổng hành dinh của Bảy Viễn ở bên kia cầu chữ Y. Đặc biệt là
người dân sống ở vùng Nancy Chợ Quán, và từ cầu Chữ Y dọc theo mé sông Bến Hàm
Tử, chạy dài vô Chợ Lớn là biết rõ biến cố lịch sử của năm ấy. Đơn vị quân đội
thiện chiến này nghe nói về sau là Sư Đoàn 5, có rất nhiều lính Nùng, một số
mang cấp bậc lớn, thiếu tá, trung tá, và có cả đại tá.
Lúc bấy giờ tuy nghe nói, nhưng rất
nhiều người chưa rõ người Nùng có gì khác biệt với người Kinh về hình dạng, màu
da, ngôn ngữ, đặc tính hoặc ăn mặc ra sao, có giống như người Thượng ở vùng núi
Bà Rá, Phước Long ở phía Bắc tỉnh Thủ Dầu Một, hay miền cao nguyên Ban Mê Thuột,
Kontum chăng? Chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đã thắc mắc rồi, thì nói chi là văn
nghệ Nùng thì người ta lại càng mù tịt. Và sau đây là sự kiện có liên quan đến
công cuộc bảo tồn văn hóa dân tộc vào những năm cuối của nền Đệ Nhị Cộng
Hòa.
Nếu tính chung mọi hình thức văn
nghệ thì Việt Nam ta cũng là quốc gia “đa văn hóa”, bởi ngoài môn nhạc của ba
miền của đất nước mà ai ai cũng biết đó là cổ nhạc Bắc Phần, cổ nhạc Trung Phần
và cổ nhạc Nam Phần (phát sinh ra cải lương) thì văn nghệ dân tộc đặc thù của
các sắc tộc thiểu số, mà hầu như sắc dân nào cũng có âm nhạc riêng, và thường
thể hiện trong các lễ hội đình đám, hoặc là được mùa. Ở đây tôi muốn đề cập đến
“văn nghệ Nùng”, một sắc dân thiểu số miền Bắc, và họ đã hiện diện trong Nam sau
ngày 20 Tháng Bảy 1954 sống hòa nhập với xã hội miền
Nam.
Một lớp dạy hát
Phưng Nùng của Người dân tộc Nùng. Photo courtesy of cema.Photo:
RFA
Năm 1954 Hiệp Định Genève ra đời chia đôi đất
nước, theo làn sóng người Bắc di cư, sắc dân Nùng cũng có mặt trên những chuyến
tàu đi vào Nam, và dĩ nhiên họ cũng mang theo văn nghệ đặc thù văn hóa. Lúc đầu
họ cư ngụ rất nhiều ở vùng Song Mao, thuộc tỉnh Phan Rang, nhưng không thấy họ
tổ chức văn nghệ ca hát, cũng đâu có ai nghe nói rằng người Nùng có văn nghệ! Có
lẽ do cuộc sống mới định cư ở trong Nam, mà người Nùng mãi miết lo làm ăn lập
nghiệp trước cái đã, mà quên đi cái món văn nghệ, và khi đã thực sự ổn định cuộc
sống rồi thì lại nhớ
đến.
Số là vào năm 1972, có nghĩa là sau 18 năm di
cư vào Nam người Nùng mới nghĩ đến văn nghệ của mình, và vấn đề được đưa ra
trong một buổi nói chuyện tại Bộ Phát Triển Sắc Tộc ở đường Nguyễn Du, Sài Gòn,
với sự tham dự của viên chức chính quyền, đại diện các bộ môn văn nghệ trong đó
có cải lương, điện ảnh
v.v...
Phát huy văn hóa
Nùng
Lúc bấy giờ ông Châu Thoại Tân, ủy viên báo
chí đặc trách khối Nùng trong Ủy Ban Sắc Tộc, loan báo đã quyết định thành lập
“Đoàn Văn Nghệ Nùng” để giới thiệu và phát huy văn hóa Nùng, và đoàn nầy sẽ bắt
đầu sưu tập đề trình diễn những vũ bộ, những điệu hát, những nhạc bản cổ điển
của sắc tộc này. Nếu tính vào thời điểm đó thì có đến gần 2 thập niên sau, kể từ
ngày vào Nam mới nghĩ tới một đoàn văn nghệ Nùng thì cũng quá trễ, nhưng trễ còn
hơn là
không.
Người dân tộc
Nùng.
Ở vùng Phú Hoa, Định Quán, đường đi
Đà Lạt, cũng có rất nhiều người Nùng định cư lập nghiệp ở đây, mà người ta lầm
lẫn họ với người Tàu. Không thấy họ tổ chức văn nghệ gì hết, mà chỉ thích coi
cải lương, bởi thỉnh thoảng cũng có gánh hát hạng B, hoặc gánh bầu tèo về đây
trình diễn. Nếu đúng như vậy, thì khó có dịp nào thiên hạ được đi coi văn nghệ
Nùng.
Thời kỳ trước 1975 ở Chợ Lớn, người
ta thấy nhạc cổ truyền của người Hoa ở Việt Nam, được coi như hình thức văn hóa
đặc thù của một trong các dân tộc thiểu số, được thể hiện trong sinh hoạt hằng
đêm tại các ngôi nhà Từ Đường, và ngày vía, ngày lễ, ngày Tết thì trình diễn ở
các chùa Tàu. Ngoài ra cũng còn phục vụ ở các đám cưới, dắm ma, sinh hoạt giống
như đờn ca cổ nhạc tài tử của miền Nam
vậy.
Nhạc cổ truyền của Tàu có thể chia
ra làm hai loại: Nhạc võ là nhạc văn. Nhạc võ thì rình rang với những trống lớn,
trống nhỏ, cồng chiêng, chập chõa, đồng la, phách... Còn nhạc văn gồm: Đờn
nguyệt (kìm), đờn gáo... kết hợp với thổi tiêu,
sáo.
Thời ấy ở Chợ Lớn có đến cả chục
đội nhạc cổ truyền, mỗi đội trên dưới 50 người, và hầu như đội nào cũng có rất
nhiều thiếu nữ Tàu xinh đẹp cộng tác. Không riêng gì ở Chợ Lớn, các tỉnh miền
Nam có người Tàu làm ăn phát đạt, mỗi khi có đám cưới, đám ma (thường là đám ma)
họ cũng rước đội nhạc cổ từ Chợ Lớn về, và người địa phương lại đươc dịp nghe
trống, chập chõa rình rang ồn ào suốt cả mấy ngày có
đám.
Ngày nay không biết nhạc cổ của Tàu
có còn hoạt động mạnh hay không, bởi lẽ cổ nhạc miền Nam cùng bộ môn cải lương
gần như tê liệt, thì ít nhiều gì cũng ảnh hưởng đến nhạc cổ của
Tàu
Đàm Minh Phượng.
Trang phục Lễ
hội của người dân tộc Nùng.
Số là vào năm 1955, một cuộc chiến
ngay giữa Đô Thành Sài Gòn, Quân Đội Quốc Gia, các đơn vị người Nùng tác chiến
dũng cảm, gan dạ đã đánh tan lực lượng võ trang Bình Xuyên ở vùng Chợ Lớn, đồng
thời chiếm luôn tổng hành dinh của Bảy Viễn ở bên kia cầu chữ Y. Đặc biệt là
người dân sống ở vùng Nancy Chợ Quán, và từ cầu Chữ Y dọc theo mé sông Bến Hàm
Tử, chạy dài vô Chợ Lớn là biết rõ biến cố lịch sử của năm ấy. Đơn vị quân đội
thiện chiến này nghe nói về sau là Sư Đoàn 5, có rất nhiều lính Nùng, một số
mang cấp bậc lớn, thiếu tá, trung tá, và có cả đại tá.
Lúc bấy giờ tuy nghe nói, nhưng rất
nhiều người chưa rõ người Nùng có gì khác biệt với người Kinh về hình dạng, màu
da, ngôn ngữ, đặc tính hoặc ăn mặc ra sao, có giống như người Thượng ở vùng núi
Bà Rá, Phước Long ở phía Bắc tỉnh Thủ Dầu Một, hay miền cao nguyên Ban Mê Thuột,
Kontum chăng? Chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đã thắc mắc rồi, thì nói chi là văn
nghệ Nùng thì người ta lại càng mù tịt. Và sau đây là sự kiện có liên quan đến
công cuộc bảo tồn văn hóa dân tộc vào những năm cuối của nền Đệ Nhị Cộng
Hòa.
Nếu tính chung mọi hình thức văn
nghệ thì Việt Nam ta cũng là quốc gia “đa văn hóa”, bởi ngoài môn nhạc của ba
miền của đất nước mà ai ai cũng biết đó là cổ nhạc Bắc Phần, cổ nhạc Trung Phần
và cổ nhạc Nam Phần (phát sinh ra cải lương) thì văn nghệ dân tộc đặc thù của
các sắc tộc thiểu số, mà hầu như sắc dân nào cũng có âm nhạc riêng, và thường
thể hiện trong các lễ hội đình đám, hoặc là được mùa. Ở đây tôi muốn đề cập đến
“văn nghệ Nùng”, một sắc dân thiểu số miền Bắc, và họ đã hiện diện trong Nam sau
ngày 20 Tháng Bảy 1954 sống hòa nhập với xã hội miền
Nam.
Một lớp dạy hát
Phưng Nùng của Người dân tộc Nùng. Photo courtesy of cema.Photo:
RFA
Năm 1954 Hiệp Định Genève ra đời chia đôi đất
nước, theo làn sóng người Bắc di cư, sắc dân Nùng cũng có mặt trên những chuyến
tàu đi vào Nam, và dĩ nhiên họ cũng mang theo văn nghệ đặc thù văn hóa. Lúc đầu
họ cư ngụ rất nhiều ở vùng Song Mao, thuộc tỉnh Phan Rang, nhưng không thấy họ
tổ chức văn nghệ ca hát, cũng đâu có ai nghe nói rằng người Nùng có văn nghệ! Có
lẽ do cuộc sống mới định cư ở trong Nam, mà người Nùng mãi miết lo làm ăn lập
nghiệp trước cái đã, mà quên đi cái món văn nghệ, và khi đã thực sự ổn định cuộc
sống rồi thì lại nhớ
đến.
Số là vào năm 1972, có nghĩa là sau 18 năm di
cư vào Nam người Nùng mới nghĩ đến văn nghệ của mình, và vấn đề được đưa ra
trong một buổi nói chuyện tại Bộ Phát Triển Sắc Tộc ở đường Nguyễn Du, Sài Gòn,
với sự tham dự của viên chức chính quyền, đại diện các bộ môn văn nghệ trong đó
có cải lương, điện ảnh
v.v...
Phát huy văn hóa
Nùng
Lúc bấy giờ ông Châu Thoại Tân, ủy viên báo
chí đặc trách khối Nùng trong Ủy Ban Sắc Tộc, loan báo đã quyết định thành lập
“Đoàn Văn Nghệ Nùng” để giới thiệu và phát huy văn hóa Nùng, và đoàn nầy sẽ bắt
đầu sưu tập đề trình diễn những vũ bộ, những điệu hát, những nhạc bản cổ điển
của sắc tộc này. Nếu tính vào thời điểm đó thì có đến gần 2 thập niên sau, kể từ
ngày vào Nam mới nghĩ tới một đoàn văn nghệ Nùng thì cũng quá trễ, nhưng trễ còn
hơn là
không.
Người dân tộc
Nùng.
Ở vùng Phú Hoa, Định Quán, đường đi
Đà Lạt, cũng có rất nhiều người Nùng định cư lập nghiệp ở đây, mà người ta lầm
lẫn họ với người Tàu. Không thấy họ tổ chức văn nghệ gì hết, mà chỉ thích coi
cải lương, bởi thỉnh thoảng cũng có gánh hát hạng B, hoặc gánh bầu tèo về đây
trình diễn. Nếu đúng như vậy, thì khó có dịp nào thiên hạ được đi coi văn nghệ
Nùng.
Thời kỳ trước 1975 ở Chợ Lớn, người
ta thấy nhạc cổ truyền của người Hoa ở Việt Nam, được coi như hình thức văn hóa
đặc thù của một trong các dân tộc thiểu số, được thể hiện trong sinh hoạt hằng
đêm tại các ngôi nhà Từ Đường, và ngày vía, ngày lễ, ngày Tết thì trình diễn ở
các chùa Tàu. Ngoài ra cũng còn phục vụ ở các đám cưới, dắm ma, sinh hoạt giống
như đờn ca cổ nhạc tài tử của miền Nam
vậy.
Nhạc cổ truyền của Tàu có thể chia
ra làm hai loại: Nhạc võ là nhạc văn. Nhạc võ thì rình rang với những trống lớn,
trống nhỏ, cồng chiêng, chập chõa, đồng la, phách... Còn nhạc văn gồm: Đờn
nguyệt (kìm), đờn gáo... kết hợp với thổi tiêu,
sáo.
Thời ấy ở Chợ Lớn có đến cả chục
đội nhạc cổ truyền, mỗi đội trên dưới 50 người, và hầu như đội nào cũng có rất
nhiều thiếu nữ Tàu xinh đẹp cộng tác. Không riêng gì ở Chợ Lớn, các tỉnh miền
Nam có người Tàu làm ăn phát đạt, mỗi khi có đám cưới, đám ma (thường là đám ma)
họ cũng rước đội nhạc cổ từ Chợ Lớn về, và người địa phương lại đươc dịp nghe
trống, chập chõa rình rang ồn ào suốt cả mấy ngày có
đám.
Ngày nay không biết nhạc cổ của Tàu
có còn hoạt động mạnh hay không, bởi lẽ cổ nhạc miền Nam cùng bộ môn cải lương
gần như tê liệt, thì ít nhiều gì cũng ảnh hưởng đến nhạc cổ của
Tàu
Đàm Minh
Phượng.