
Để phù hợp với điều kiện sinh hoạt và sản 
xuất, người Nùng sống quây quần thành từng bản. Nhà ở của người Nùng không những 
là nơi tụ họp các sinh hoạt văn hóa của gia đình mà đây còn là một hình ảnh thu 
nhỏ của văn hoá tộc người.
Kết cấu ngôi 
nhà
Ngôi nhà truyền thống tiêu biểu của người 
Nùng là ngôi nhà sàn lợp ngói máng. Đặc điểm dễ nhận thấy nhất trong ngôi nhà 
của người Nùng là nhà sàn 4 mái, ngoài 2 mái chính còn 2 mái đầu hồi bao giờ 
cũng thấp hơn mái chính. Kết cấu kỹ thuật ở nhà sàn 4 mái của đồng bào Nùng phức 
tạp hơn so với nhà sàn 2 mái ở một số địa phương khác. Điều này thể hiện rõ ở 
kết cấu vì chái, mái đầu hồi, các vì kèo, cột trong bộ sườn của nó (thường có 
kết cấu 4,6,7 hàng 
cột).
Ngôi nhà sàn của người Nùng cửa ra vào mở 
ra 2 đầu hồi. Cửa chính thường đặt cầu thang lên xuống, còn cửa phụ là nơi bếp 
hay ra sàn. Số lượng các bậc cầu thang bao giờ cũng chỉ có số bậc lẻ: 3,5,7,9... 
không làm bậc chẵn. Quan niệm cũ cho rằng, cầu thang bậc chẵn chỉ dùng ở thế 
giới của người chết. Câu thành ngữ “vùng dú củ pây”(lẻ ở, chẵn đi) là để diễn 
đạt quan niệm 
đó.
Chọn đất và hướng nhà (Dòm tỳ 
lơn)
Trong tâm thức của người Nùng, ngôi nhà 
dường như đã trở thành điều kiện cho sự thành bại của mỗi đời người. Chính vì 
thế, việc làm nhà mới đối với người Nùng đã trở thành một trong những sự kiện 
quan trọng của cuộc sống. Người Nùng quan niệm, nơi làm nhà phải cao, thoáng, vị 
trí của ngôi nhà và hướng nhà không bị che khuất bởi các ngọn núi. Hướng nhà 
được cư dân địa phương thời kỳ này lựa chọn chủ yếu là hướng Nam. Cũng giống như 
một số quan niệm hiện nay, khi chọn đất và hướng nhà người Nùng có một số kiêng 
kỵ: Họ kiêng làm nhà trên nền giếng cũ hay ngõ cụt, những mảnh đất ở nơi gần 
chùa, miếu, nơi thờ cúng... ở hướng nào thì nhà của người Nùng cũng đảm bảo 
những điều kiện thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt, đáp ứng nhu cầu của cuộc 
sống.
Chọn vật liệu (Dòm may 
day)
Khác với một số 
tộc người khác, người Nùng không có tập tục giúp đỡ nhau 
hay chọn ngày đi lấy vật liệu. Thường thì gia đình tự chuẩn bị vật liệu, bao giờ 
đủ thì mới làm nhà. Người ta lên rừng chọn những cây tre, cây gỗ vừa ý. Cây gỗ, 
cây tre ấy phải thẳng, đều gióng. Có như vậy mới đảm bảo ý nghĩa khoa học, sức 
bền của vật liệu và mỹ quan. Dây buộc thường làm bằng tre, nứa, mây nước, vật 
liệu làm mái thường được đồng bào chuẩn bị khi sắp sửa làm nhà vào lúc nông 
nhàn.
Chọn tuổi và ngày khởi công (Dòm văn hất 
lơn)
Khi chuẩn bị xong nguồn nguyên vật liệu, 
đồng bào tiến hành chọn năm làm nhà, chọn ngày khởi công. Người chủ biện một lễ 
nhỏ đến nhờ thầy Tào, thầy Mo xem tuổi mình có làm được nhà vào năm đó không, 
khởi công giờ nào, ngày nào; dựng nhà và vào nhà mới ngày nào là đẹp nhất. Các 
thầy thường dựa vào tuổi của chủ nhà và ngày sấm ra đầu tiên của năm đó. Thông 
thường những người ngoài 40 tuổi mới được làm nhà. Khi đã xem được tuổi và các 
ngày quan trọng thì gia chủ chuẩn bị làm lễ “khởi móng” (người Kinh gọi là động 
thổ). Sau khi khấn xong, người được tuổi làm nhà sẽ cầm cuốc, cuốc 45 nhát cuốc 
ở bốn góc từ Đông, Nam, Tây, Bắc và ở giữa để khởi 
móng.
Lễ phát mộc (Dòm văn long 
lơn)
Đây là nghi lễ cầu xin Thổ thần và Tổ tiên, 
Tổ sư Lỗ Ban phù hộ cho việc làm mộc được an toàn. Do đó, lễ phát mộc được tiến 
hành không chỉ có chủ nhà mà còn có sự tham gia của phường thợ. Để tiến hành Lễ 
phát mộc chủ nhà sắp mâm cỗ mặn đặt lên bàn thờ thắp hương vái lạy tổ tiên, thợ 
cả thắp nén hương xin phép vị tổ sư của mình là Lỗ Ban. Sau khi hành lễ, người 
thợ cả dùng dao đẽo mấy nhát vào cây gỗ theo giờ đã chọn phù hợp với nhà. Chỉ 
sau khi người thợ cả đặt dao xuống thì công việc làm mộc mới được bắt đầu việc 
quan trọng nhất của ngày hôm đó là phải cắt được “Cai may to long lơn” (cây sào, 
thước 
mực).
Cách thức dựng 
nhà
Việc dựng nhà đối với người Nùng không mấy 
khó khăn vì đồng bào có tập quán giúp đỡ nhau khi làm nhà. Khi dựng nhà người 
Nùng chú ý nhất thời điểm đặt cột chính và đặt nóc. Những sự kiện này người Nùng 
phải chọn ngày dựa theo lời của thầy cúng. Đến giờ quy định, người ta lắp các vì 
vào nhau.
Trước khi dựng nhà họ đào sẵn những chiếc 
hố để dựng cột. Đến giờ đẹp họ mang hòn đá tảng bỏ vào những chiếc hố đó. Riêng 
cột chính chủ nhà phải ôm cột nhà đặt lên tảng đá. Đối với nhà đất cột kê, họ 
làm lễ in tảng trước rồi mới dựng trước khi đặt tảng, người ta thường đặt xuống 
đó mảnh giấy đỏ, coi như là sự yểm bùa để bảo vệ ngôi nhà khỏi tà ma. Sau khi 
dựng xong, người ta bắt đầu lợp nhà, lợp hai mái phụ trước rồi đến hai mái 
chính.
Lễ vào nhà mới (Kin liên hoan khẩu lờn 
mâu)
Lễ vào nhà mới là một trong những nghi thức 
không thể thiếu được khi làm xong ngôi nhà. Trước hết, người ta tiến hành một số 
công việc như là làm ống hương đặt ở các nơi thờ cúng. Ngoài ra, còn phải ấn 
định nơi đặt bếp nấu nướng, kiếm củi sẵn để đó. Bàn thờ được đóng mới hoặc nếu 
dùng bàn thờ cũ phải lau chùi sạch sẽ, kể cả các đồ thờ. Thời điểm đặt bàn thờ 
phải được thầy cúng xem kỹ. Đây là một hình thức tín ngưỡng truyền thống, phù 
hợp với điều kiện kinh tế, điều kiện sinh hoạt và đời sống văn hoá tinh thần của 
đồng bào, nó có ý nghĩa tác dụng giáo dục sâu 
sắc.
Những tín ngưỡng khác liên quan đến ngôi 
nhà
Người Nùng cho rằng, ngôi nhà có chủ thì 
phải có nơi thờ cúng với mục đích phù hộ sức khoẻ cho gia đình, xua đuổi tà ma, 
đặc biệt là canh giữ cửa không cho các hồn vía xấu vào nhà. Do đó, ngoài bàn thờ 
Tổ tiên và ông Táo họ còn có ống hương ở trước cửa để thờ thần canh 
cửa.
Trong nhà có người mất thì đồ vật cũng phải 
đeo tang. Nếu người chết ở ngoài đường thì không được phép đưa vào trong nhà mà 
phải để ngoài ngõ. Họ quan niệm rằng, khi đưa những người chết đường vào nhà gia 
đình sẽ gặp điều xấu, bị ma tà hãm 
hại.
Các gia đình trong làng xóm có người sinh 
thì bà con không ai đến chơi vì sợ mang vía xấu đến nhà làm ảnh hưởng đến sức 
khoẻ và tính tình của đứa bé. Nếu ai không biết đến nhà có người đang ở cữ thì 
sẽ được chủ nhà mời chén rượu để giải 
đen.
Nhà ở phản ánh trình độ phát triển kinh tế 
xã hội của mỗi dân tộc, đồng thời phản ánh chiều hướng phát triển kinh tế của họ 
gắn với ứng xử với môi trường thiên nhiên, đặc biệt là phương thức sinh 
hoạt./.
 Minh Thắng

Để phù hợp với điều kiện sinh hoạt và sản 
xuất, người Nùng sống quây quần thành từng bản. Nhà ở của người Nùng không những 
là nơi tụ họp các sinh hoạt văn hóa của gia đình mà đây còn là một hình ảnh thu 
nhỏ của văn hoá tộc người.
Kết cấu ngôi 
nhà
Ngôi nhà truyền thống tiêu biểu của người 
Nùng là ngôi nhà sàn lợp ngói máng. Đặc điểm dễ nhận thấy nhất trong ngôi nhà 
của người Nùng là nhà sàn 4 mái, ngoài 2 mái chính còn 2 mái đầu hồi bao giờ 
cũng thấp hơn mái chính. Kết cấu kỹ thuật ở nhà sàn 4 mái của đồng bào Nùng phức 
tạp hơn so với nhà sàn 2 mái ở một số địa phương khác. Điều này thể hiện rõ ở 
kết cấu vì chái, mái đầu hồi, các vì kèo, cột trong bộ sườn của nó (thường có 
kết cấu 4,6,7 hàng 
cột).
Ngôi nhà sàn của người Nùng cửa ra vào mở 
ra 2 đầu hồi. Cửa chính thường đặt cầu thang lên xuống, còn cửa phụ là nơi bếp 
hay ra sàn. Số lượng các bậc cầu thang bao giờ cũng chỉ có số bậc lẻ: 3,5,7,9... 
không làm bậc chẵn. Quan niệm cũ cho rằng, cầu thang bậc chẵn chỉ dùng ở thế 
giới của người chết. Câu thành ngữ “vùng dú củ pây”(lẻ ở, chẵn đi) là để diễn 
đạt quan niệm 
đó.
Chọn đất và hướng nhà (Dòm tỳ 
lơn)
Trong tâm thức của người Nùng, ngôi nhà 
dường như đã trở thành điều kiện cho sự thành bại của mỗi đời người. Chính vì 
thế, việc làm nhà mới đối với người Nùng đã trở thành một trong những sự kiện 
quan trọng của cuộc sống. Người Nùng quan niệm, nơi làm nhà phải cao, thoáng, vị 
trí của ngôi nhà và hướng nhà không bị che khuất bởi các ngọn núi. Hướng nhà 
được cư dân địa phương thời kỳ này lựa chọn chủ yếu là hướng Nam. Cũng giống như 
một số quan niệm hiện nay, khi chọn đất và hướng nhà người Nùng có một số kiêng 
kỵ: Họ kiêng làm nhà trên nền giếng cũ hay ngõ cụt, những mảnh đất ở nơi gần 
chùa, miếu, nơi thờ cúng... ở hướng nào thì nhà của người Nùng cũng đảm bảo 
những điều kiện thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt, đáp ứng nhu cầu của cuộc 
sống.
Chọn vật liệu (Dòm may 
day)
Khác với một số 
tộc người khác, người Nùng không có tập tục giúp đỡ nhau 
hay chọn ngày đi lấy vật liệu. Thường thì gia đình tự chuẩn bị vật liệu, bao giờ 
đủ thì mới làm nhà. Người ta lên rừng chọn những cây tre, cây gỗ vừa ý. Cây gỗ, 
cây tre ấy phải thẳng, đều gióng. Có như vậy mới đảm bảo ý nghĩa khoa học, sức 
bền của vật liệu và mỹ quan. Dây buộc thường làm bằng tre, nứa, mây nước, vật 
liệu làm mái thường được đồng bào chuẩn bị khi sắp sửa làm nhà vào lúc nông 
nhàn.
Chọn tuổi và ngày khởi công (Dòm văn hất 
lơn)
Khi chuẩn bị xong nguồn nguyên vật liệu, 
đồng bào tiến hành chọn năm làm nhà, chọn ngày khởi công. Người chủ biện một lễ 
nhỏ đến nhờ thầy Tào, thầy Mo xem tuổi mình có làm được nhà vào năm đó không, 
khởi công giờ nào, ngày nào; dựng nhà và vào nhà mới ngày nào là đẹp nhất. Các 
thầy thường dựa vào tuổi của chủ nhà và ngày sấm ra đầu tiên của năm đó. Thông 
thường những người ngoài 40 tuổi mới được làm nhà. Khi đã xem được tuổi và các 
ngày quan trọng thì gia chủ chuẩn bị làm lễ “khởi móng” (người Kinh gọi là động 
thổ). Sau khi khấn xong, người được tuổi làm nhà sẽ cầm cuốc, cuốc 45 nhát cuốc 
ở bốn góc từ Đông, Nam, Tây, Bắc và ở giữa để khởi 
móng.
Lễ phát mộc (Dòm văn long 
lơn)
Đây là nghi lễ cầu xin Thổ thần và Tổ tiên, 
Tổ sư Lỗ Ban phù hộ cho việc làm mộc được an toàn. Do đó, lễ phát mộc được tiến 
hành không chỉ có chủ nhà mà còn có sự tham gia của phường thợ. Để tiến hành Lễ 
phát mộc chủ nhà sắp mâm cỗ mặn đặt lên bàn thờ thắp hương vái lạy tổ tiên, thợ 
cả thắp nén hương xin phép vị tổ sư của mình là Lỗ Ban. Sau khi hành lễ, người 
thợ cả dùng dao đẽo mấy nhát vào cây gỗ theo giờ đã chọn phù hợp với nhà. Chỉ 
sau khi người thợ cả đặt dao xuống thì công việc làm mộc mới được bắt đầu việc 
quan trọng nhất của ngày hôm đó là phải cắt được “Cai may to long lơn” (cây sào, 
thước 
mực).
Cách thức dựng 
nhà
Việc dựng nhà đối với người Nùng không mấy 
khó khăn vì đồng bào có tập quán giúp đỡ nhau khi làm nhà. Khi dựng nhà người 
Nùng chú ý nhất thời điểm đặt cột chính và đặt nóc. Những sự kiện này người Nùng 
phải chọn ngày dựa theo lời của thầy cúng. Đến giờ quy định, người ta lắp các vì 
vào nhau.
Trước khi dựng nhà họ đào sẵn những chiếc 
hố để dựng cột. Đến giờ đẹp họ mang hòn đá tảng bỏ vào những chiếc hố đó. Riêng 
cột chính chủ nhà phải ôm cột nhà đặt lên tảng đá. Đối với nhà đất cột kê, họ 
làm lễ in tảng trước rồi mới dựng trước khi đặt tảng, người ta thường đặt xuống 
đó mảnh giấy đỏ, coi như là sự yểm bùa để bảo vệ ngôi nhà khỏi tà ma. Sau khi 
dựng xong, người ta bắt đầu lợp nhà, lợp hai mái phụ trước rồi đến hai mái 
chính.
Lễ vào nhà mới (Kin liên hoan khẩu lờn 
mâu)
Lễ vào nhà mới là một trong những nghi thức 
không thể thiếu được khi làm xong ngôi nhà. Trước hết, người ta tiến hành một số 
công việc như là làm ống hương đặt ở các nơi thờ cúng. Ngoài ra, còn phải ấn 
định nơi đặt bếp nấu nướng, kiếm củi sẵn để đó. Bàn thờ được đóng mới hoặc nếu 
dùng bàn thờ cũ phải lau chùi sạch sẽ, kể cả các đồ thờ. Thời điểm đặt bàn thờ 
phải được thầy cúng xem kỹ. Đây là một hình thức tín ngưỡng truyền thống, phù 
hợp với điều kiện kinh tế, điều kiện sinh hoạt và đời sống văn hoá tinh thần của 
đồng bào, nó có ý nghĩa tác dụng giáo dục sâu 
sắc.
Những tín ngưỡng khác liên quan đến ngôi 
nhà
Người Nùng cho rằng, ngôi nhà có chủ thì 
phải có nơi thờ cúng với mục đích phù hộ sức khoẻ cho gia đình, xua đuổi tà ma, 
đặc biệt là canh giữ cửa không cho các hồn vía xấu vào nhà. Do đó, ngoài bàn thờ 
Tổ tiên và ông Táo họ còn có ống hương ở trước cửa để thờ thần canh 
cửa.
Trong nhà có người mất thì đồ vật cũng phải 
đeo tang. Nếu người chết ở ngoài đường thì không được phép đưa vào trong nhà mà 
phải để ngoài ngõ. Họ quan niệm rằng, khi đưa những người chết đường vào nhà gia 
đình sẽ gặp điều xấu, bị ma tà hãm 
hại.
Các gia đình trong làng xóm có người sinh 
thì bà con không ai đến chơi vì sợ mang vía xấu đến nhà làm ảnh hưởng đến sức 
khoẻ và tính tình của đứa bé. Nếu ai không biết đến nhà có người đang ở cữ thì 
sẽ được chủ nhà mời chén rượu để giải 
đen.
Nhà ở phản ánh trình độ phát triển kinh tế 
xã hội của mỗi dân tộc, đồng thời phản ánh chiều hướng phát triển kinh tế của họ 
gắn với ứng xử với môi trường thiên nhiên, đặc biệt là phương thức sinh 
hoạt./.
 Minh Thắng





