This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Hiển thị các bài đăng có nhãn ₪ Dân tộc Nùng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ₪ Dân tộc Nùng. Hiển thị tất cả bài đăng

HÔN NHÂN TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI NÙNG PHÀN SLÌNH (Đàm Minh Phượng)

Hôn nhân là mối quan hệ xuất phát từ lợi ích của gia đình, dòng họ, sau đó mới đến hạnh phúc của đôi trai gái. Trải qua bao thế hệ, cưới xin của người Nùng Phàn Slình đã trở thành phong tục, mang bản sắc riêng với những quy định thống nhất về nghi lễ và phương thức tổ chức nhất định. Ngày cưới không chỉ quan trọng với đôi trai gái, nó còn có ý nghĩa là cha mẹ đã làm tròn nghĩa vụ, trách nhiệm nuôi dạy con cái trưởng thành.

Tiêu chí lựa chọn bạn đời
Tiêu chuẩn lựa chọn một người vợ lý tưởng gồm có: tính tình, khả năng lao động, sức khỏe, biết quản lý công việc trong nhà và đặc biệt là tài xe chỉ, dệt vải. Công việc chính của người phụ nữ là làm tất cả những sản phẩm của nghề dệt như quần áo, chăn (mặt phà), gối đệm... một cách khéo léo. Khi lựa chọn chàng rể, người ta thường lưu ý đến sức khỏe, khả năng lao động, cày bừa thành thạo, săn bắn giỏi, biết làm mộc, chăm chỉ làm ăn, giỏi nghề rèn và đạo đức tốt. Tóm lại, người chồng biết làm mọi việc, làm chủ gia đình sau này sẽ được mọi người coi trọng.

Trong xã hội truyền thống, độ tuổi kết hôn thường rất sớm, nữ trung bình từ 15 đến 17 tuổi, nam từ 14 đến 16 tuổi. Và, hôn nhân thường diễn ra sớm hơn do việc so lá số, dạm hỏi đã được làm từ nhiều năm trước. Họ cho rằng, con cái từ 15 tuổi trở lên đã là người lớn, các chàng trai, cô gái bắt đầu cảm nhận được tình cảm của người khác giới.

Trong quá khứ, người Nùng Phàn Slình bị chi phối bởi chế độ gia đình phụ quyền gia trưởng, việc nhân duyên hoàn toàn do cha mẹ quyết định. Do vậy, hôn nhân không hoàn toàn dựa trên sự hiểu biết và tình cảm thương yêu nhau của đôi trai gái, mà bị quy định bởi những quan hệ gia đình, xã hội. Những tính toán về kinh tế, địa vị xã hội, về số mệnh vẫn còn hiện hữu sâu sắc trong suy nghĩ của họ, chính vì thế, trong nhiều trường hợp, kết hôn là do bố mẹ kén chọn. Tiêu chuẩn chọn vợ, chọn chồng phải xứng đáng với đẳng cấp của dòng họ, địa vị của gia đình. Nhiều khi thịt, rượu, bạc trắng... là những vật để định giá người con gái khi được gả bán, vô tình họ đã trở thành vật phẩm thương mại.

Nguyên tắc hôn nhân
Quy tắc cơ bản trong hôn nhân là phải xác định được lượt lài, đúc lượt (máu mủ) với nhau hay không. Nghĩa là thành viên trong dòng tộc, tính theo huyết thống phía cha là 5 đời, tuyệt đối không được phép lấy nhau. Ai vi phạm quy tắc này sẽ bị coi là mắc tội loạn luân, bị cộng đồng lên án quyết liệt, bị trị tội và phải làm lễ tạ tội với tổ tiên, đôi khi còn bị đuổi ra khỏi nhà và đôi trai gái đó sẽ không được họ hàng công nhận là con cái trong dòng họ. Những trường hợp kết hôn cùng họ, khác chi dù không bị cấm đoán hoàn toàn, nhưng cũng không được khuyến khích.

Người Nùng Phàn Slình thường dựa vào gia phả để xác định những người có cùng họ nội không bao giờ được lấy nhau, trừ những người họ xa, khác chi. Chính vì thế, mỗi dòng họ đều có gia phả, ghi đầy đủ tên tuổi của những người con trai, thậm chí ghi cả họ của người vợ. Trai gái trước khi kết hôn phải ghi rõ họ tên, tuổi, vừa để thày cúng so tuổi xem có hợp không, đồng thời xác định rõ quan hệ huyết thống của đôi trai gái có sai phạm gì không, sau đó mới quyết định ăn hỏi. Họ cũng không cho phép con cô, con cậu được lấy nhau. Việc kết hôn giữa con dì, con già, luật tục không cấm song cũng không khuyến khích, vì vậy những trường hợp kiểu này chỉ là ngoại lệ ở các thôn bản.

Hôn nhân truyền thống thường là những người đồng tộc lấy nhau, bởi lấy người khác tộc sẽ gặp nhiều hạn chế trong quan hệ ứng xử, tâm lý, nếp sống, ngôn ngữ... Vì vậy, nam nữ thanh niên rất ngại lấy người khác tộc. Song, với sự phát triển xã hội, các cuộc hôn nhân hỗn hợp tộc người ngày càng nhiều, phổ biến ở vùng biên giới, vùng cư trú xen cài, nơi quan hệ giao tiếp diễn ra mạnh mẽ. Các cuộc hôn nhân này thường thấy ở các tộc gắn bó với nhau về lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa như Tày, Dao, Kinh, Hoa...

            Các nghi lễ trong hôn nhân
Tục lệ cưới xin thường trải qua nhiều nghi lễ như: lễ dạm ngõ, lễ xin và so lá số, lễ báo lá số, ăn hỏi, lễ cưới chính thức, lễ lại mặt.

Lễ dạm ngõ là nghi thức đầu tiên trong hôn nhân, có ý nghĩa rất quan trọng vì nhà trai có thể biết ý kiến của nhà gái về việc thành hôn như thế nào. Người được chọn làm mối không phân biệt nam nữ, nhưng phải đứng tuổi, gia đình hạnh phúc, đông con, nhiều cháu, nói chuyện khéo léo, có tài ứng xử đối đáp, có uy tín, được nhiều người trong bản kính nể. Lễ dạm ngõ không có thời gian cố định, mà được thực hiện quanh năm, chỉ tránh những ngày xấu, ngày giỗ kỵ của tổ tiên ông bà... Thời gian đi, hướng đi nhiều khi tùy thuộc vào sự sắp xếp của thày cúng. Buổi lễ dạm hỏi chỉ mang tính chất thăm dò nên đồ lễ nhà trai mang sang nhà gái rất đơn giản, gồm có: trầu cau, 1 kg thịt lợn, 2 con gà, 1 chai rượu và vài gói kẹo. Nếu đồng ý, nhà gái đặt lễ lên bàn thờ, mời ông mối ở lại ăn cơm, ngồi nói chuyện. Hôm ấy nhà gái sẽ thịt 2 con gà mà nhà trai mang sang. Nếu không đồng ý, nhà gái sẽ không thịt gà đó mà thịt gà nhà mình để làm cơm thết đãi nhà trai.

Lễ xin lá số (pây pỏi mình), nhà trai chọn ngày lành tháng tốt, chuẩn bị đồ lễ sang nhà gái xin giờ, ngày, tháng, năm sinh của cô gái. Lễ vật nhà trai mang sang thường có chai rượu, con gà, 1 chiếc bánh dầy. Theo phong tục, để linh nghiệm trong việc so mệnh, cô gái tự tay viết ngày, tháng, năm sinh đưa cho nhà trai, chàng trai cũng phải tự viết ngày, tháng, năm sinh đưa cho cha mẹ mình. Sau khi có được lá số của đôi trẻ, cha mẹ của chàng trai mang hai lá số này đến nhờ thày cúng xem có hợp nhau không. Nếu hợp, nhà trai sẽ chủ động chọn ngày lành tháng tốt để sang nhà gái báo lá số đã hợp; nếu không hợp thì nhà trai phải trả lại lá số cho nhà gái và ít tiền bồi thường danh dự cho người con gái. Ở một số nơi, nhà trai không cần sang báo cho nhà gái, sau một thời gian không thấy hồi âm, nhà gái sẽ tự biết.

Sau khi xem số thấy hợp nhau, nhà trai sẽ mang lễ vật sang nhà gái để chính thức báo lá số (páo mình) của đôi trai gái đã hợp nhau. Ông mối và một người thanh niên mang theo đôi gà trống thiến, hai cân gạo nếp, một chai rượu, một bao thuốc lá, tất cả đều buộc bằng lạt nhuộm đỏ, ngụ ý thông báo cho mọi người xung quanh biết là cô gái đã có nơi có chốn. Đại diện nhà gái nhận lễ và đưa lên bàn thờ tổ tiên thắp hương, vì biết chắc chắn đôi trai gái đã hợp số và sẽ trở thành vợ chồng nên buổi lễ được tổ chức rất long trọng và vui vẻ. Tuy nhiên, buổi lễ được tổ chức lớn hay nhỏ là tùy thuộc vào kinh tế của từng gia đình, sau bữa cỗ họ hàng bên nhà gái sẽ thỏa thuận thời gian để tiến hành lễ ăn hỏi.

Lễ ăn hỏi (khả cáy) thực chất là buổi thỏa thuận về đồ lễ cưới giữa nhà trai và nhà gái. Ông mối cùng một em bé trai khoảng 12 - 13 tuổi mang theo đôi gà thiến, 6 - 15 kg thịt lợn, 2 chai rượu, 10 ống gạo nếp, tiền bọc trong vải đỏ, 60 kg gạo tẻ đến nhà gái làm cơm thết đãi họ hàng nhà gái. Tất cả đều là số chẵn hay con số theo cặp đôi, tượng trưng cho lứa đôi trong hôn nhân, với ý nghĩa cầu mong cho sự vuông tròn của đôi vợ chồng trẻ. Khi nhà trai mang lễ sang, đại diện nhà gái đón nhận và dâng lên bàn thờ tổ tiên. Sau đó đại diện nhà trai giới thiệu đoàn nhà trai, tuyên bố lý do và mọi công việc từ đó trở đi nhà gái trao đổi với đại diện của nhà trai. Sau bữa cơm, đại diện hai gia đình bàn bạc, thỏa thuận đồ sính lễ và thời gian tiến hành các nghi lễ tiếp theo. Khi về, nhà gái thường lại quả bánh, gà, thịt lợn, mỗi thứ một nửa gọi là trả gánh hoàn phúc, việc thỏa thuận về lễ vật xưa kia được gọi là tục thách cưới.

Tùy từng gia đình, số lượng đồ sính lễ được thách sẽ khác nhau. Thực hiện việc thách cưới đòi hỏi sự tế nhị, khéo léo của đại diện hai bên, vừa lo tốt chuyện hôn lễ cho đôi trẻ, vừa tránh tự ái và thiệt thòi về mình. Tuy nhiên, lễ vật nhiều hay ít, một phần phụ thuộc vào khả năng đối đáp, ứng khẩu của người làm mối trong lễ hỏi, phần khác phụ thuộc vào khả năng kinh tế của gia đình nhà trai, nhưng lễ vật nhất thiết phải có thịt lợn quay, gà, rượu, 1 dây hồng (làm bằng giấy bạc, màu đỏ), trong ngày cưới sẽ được đặt lên bàn thờ tổ tiên. Ngoài ra, nhà gái cũng phải chuẩn bị thêm một dây hồng để quàng vào cổ chú rể khi vái lạy tổ tiên nhà vợ, nếu trong gia đình anh chị em nào lập gia đình trước phải để lại dây hồng cho người lập gia đình sau. Làm như vậy người lập gia đình sau sẽ được hưởng duyên, may mắn của người đi trước và dây hồng này sẽ được treo mãi trên bàn thờ, kể cả khi các con đã đi lấy chồng, lấy vợ hết.

Sau lễ ăn hỏi, coi như hai gia đình chính thức gả con cho nhau và xem nhau là thông gia, nhà trai chuẩn bị điều kiện vật chất để tổ chức lễ cưới. Nhưng từ lúc này đến lễ cưới, thời gian thường kéo dài từ một đến ba năm, thậm chí lâu hơn. Trong thời gian chờ tổ chức lễ cưới, vào các dịp tết nguyên đán, rằm tháng 7, nhà trai phải mang lễ tới nhà gái, gọi là tục sêu tết.

Lễ cưới là việc quan trọng nhất trong nghi thức kết hôn. Ngoài ý nghĩa tục lệ, nó còn hàm chứa cả ý nghĩa về mặt pháp lý. Đây là nghi lễ để cộng đồng làng bản thừa nhận chính thức việc thành vợ thành chồng của đôi trai gái. Lễ cưới thường được tổ chức từ tháng 8 năm trước đến tháng 2 âm lịch năm sau. Đây là thời gian rảnh rỗi, mùa màng đã thu hoạch xong, lương thực, thực phẩm dồi dào, thời tiết mát mẻ, phù hợp với hôn lễ. Theo quan niệm truyền thống, nếu tổ chức lễ cưới vào tháng 3, 4 âm lịch thì đôi trai gái sẽ khó thành vợ chồng. Người Nùng Phàn Slình kiêng một năm không được gả chồng cho 2 chị em, một tháng không tổ chức hai đám cưới, còn nếu tổ chức vào hai tháng này thì chỉ dành cho những cô gái đã bị nhỡ nhàng.

Lễ cưới thường diễn ra 3 ngày ở hai bên gia đình. Thông thường bên nhà gái tổ chức trước, nhà trai tổ chức sau, song cũng có nơi tổ chức cùng ngày, nếu lễ cưới rể đời (1) thì ngược lại. Theo quan niệm của người Nùng Phàn Slình, nếu hôm cưới sáng sớm có mưa phùn, buổi chiều hửng nắng thì sau này đôi trai gái sẽ làm ăn thuận buồm xuôi gió; nếu có sấm sét, việc ắt sẽ khó khăn, những điều rủi ro có thể xảy ra đối với họ.

Tại nhà trai, khoảng 8 - 9 giờ sáng, những người trong đoàn đi đón dâu ăn mặc đẹp, dẫn đầu là ông mối, tiếp đến là chàng rể, 2 phù rể, 1 ông đón, 1 bà đón, 4 thanh niên khiêng lợn quay, 1 bé trai gánh xôi, 1 bé gái gánh đôi gà thiến, 2 con gà luộc, 1 dải lụa hồng và 1 mảnh vải (khoảng 2 mét) gọi là vải tùm khớ để trả công ơn mang nặng đẻ đau cho mẹ cô dâu.

Trang phục của chú rể và phù rể như nhau, không khác gì ngày thường mà chỉ khác là họ thường mặc bộ quần áo mới nhất, đẹp nhất, cắt may từ loại vải tốt, đẹp nhất mà gia đình tự dệt hoặc mua ở chợ. Áo chàm đen, kiểu cổ cứng, xẻ ngực, khuy cài bằng dây vải, thường có 4 túi, dài quá mông, quần được cắt từ vải đen nhuộm chàm, phần cạp là vải khác màu. Dây lưng làm bằng sợi vải bện hoặc sợi dù luôn buộc sẵn ở eo. Trước kia nam giới cũng thường búi tó sau gáy rồi chít khăn đen, nhưng đến nay thường mặc âu phục và cắt tóc ngắn. Trước giờ đi đón dâu, người ta thường làm lễ cúng tổ tiên, theo tục lệ từ trong nhà đi ra không ai trong đoàn đón dâu được dẫm chân vào bậc cửa chính.

Khi đoàn nhà trai đến nơi, nhà gái cử một người đại diện ra đón và một số người khác ra phụ khiêng lễ vật vào nhà. Ông thày cúng là người đầu tiên bước chân vào nhà cô dâu, tiếp đó là ông, bà mối, rồi chú rể, 2 phù rể và những người khiêng lễ vật. Tiếp theo, ông, bà mối thông báo lễ vật nhà trai mang đến và nhà gái mở ra kiểm tra. Sau đó, nhà gái lấy dải lụa hồng nhà trai mang đến buộc vào bàn thờ tổ tiên, đồng thời mang dải lụa hồng đã được chuẩn bị từ trước để thày cúng buộc vào người chú rể. Khi thày cúng châm nến lên bàn thờ để khấn, chú rể quỳ trước bàn thờ, 2 bên là 2 phù rể. Lúc này ông, bà mối rót 2 chén rượu rồi thông báo cho nhà gái biết giờ rước dâu, chú rể phải làm lễ ra mắt và lạy tạ từng người bậc trên bên họ hàng nhà gái. Làm xong, ai cũng mừng tiền cho chú rể.

Trang phục của cô dâu cũng được cắt may từ vải chàm đen, áo kiểu 5 thân cài cúc sang nách, thân áo dài quá mông, mép ống tay áo được can thêm miếng vải màu xanh khác với màu áo. Chỗ khuy cài ở vạt áo phía trước cũng được viền một băng vải màu xanh, cổ đứng, áo luôn đi kèm với thắt lưng. Quần kiểu chân què đũng rộng, ống rộng, cạp rộng, thắt bằng 1 sợi dây vải, ống quần thường dài tới mắt cá chân. Cô dâu chít khăn đen hình vuông kiểu mỏ quạ, phù dâu cũng mặc giống cô dâu.

Trong lễ cưới, tại nhà gái, các cuộc hát xướng (cò lảu) giữa các vị khách và cô dâu, chú rể diễn ra từ lúc nhà trai đến cho tới khi đón cô dâu về nhà chồng. Các điệu hát sli chỉ diễn ra khi khách khứa đã có mặt đông đủ trong đám cưới, chú rể và ông, bà mối là những người phải lĩnh các vế đối đó.

Theo tục lệ, người được mời đến dự đám cưới thường mang theo 2 loại tiền mừng: thứ nhất là tiền được ghi vào sổ, gia đình sẽ giao cho một người đứng ra ghi chép cẩn thận sau này còn phúc đáp lại; thứ hai là tiền mừng riêng cho cô dâu, chú rể khi đi mời khách ăn trầu, hút thuốc, uống rượu, không ghi vào sổ sách. Để tỏ lòng cảm ơn họ hàng nội ngoại và khách quý, khi đi mời trầu, thuốc, cô dâu chú rể cũng có quà biếu, được đặt trên khay trầu thuốc và đưa đến từng người một.

Đến giờ đón dâu, thày cúng lấy một tấm vải ra đứng trước bàn thờ tổ tiên nhà gái để xin gói khăn (vía) của cô dâu về nhà, tấm khăn đó được gấp lại và được đại diện nhà trai mang về đặt trên bàn thờ tổ tiên. Khi bước chân xuống sàn, nếu là người đầu tiên lập gia đình, cô dâu phải quàng tấm vải đỏ lên vai anh chị của mình, thì người đó mới không bị xui xẻo và sau này mới có thể lấy được vợ, được chồng.

Theo phong tục, hai phù dâu cùng cô dâu về nhà chồng. Cô dâu mang theo một hòm gỗ đựng quần áo, một bộ ấm chén, một phích nước, một chậu rửa mặt, một chậu rửa chân, một chiếc chăn, một chiếc màn, xoong, nồi và toàn bộ số lễ vật mà nhà trai đã đưa tiền cho nhà gái sắm. Ngoài ra, cô dâu còn phải mang theo một ít khăn mặt để khi về đến nhà chồng còn biếu ông nội, ông bác, ông chú chồng.

Trên đường về nhà chồng, nếu gặp đám cưới đi ngược chiều thì 2 cô dâu thường đổi khăn hoặc nón, dép cho nhau. Khi về đến nhà chồng, cô dâu phải chờ đến giờ tốt mới được bước vào nhà, sau khi thực hiện một số nghi lễ thanh sạch. Lúc này, trước cửa nhà trai đã được thày cúng đặt sẵn một chậu nước trong đó có một cành lá xanh, khi cô dâu đang chuẩn bị bước chân vào nhà, thày mo cầm cành lá phất nhẹ vài giọt nước vào chân cô dâu, ý muốn xua đi mọi điều không tốt ở người cô dâu khi bước chân vào nhà chồng. Sau khi đã được mời vào nhà, cô dâu cũng phải thực hiện các thủ tục như chàng rể đã làm ở nhà cô dâu, sau đó cô dâu cùng chú rể đi vái lạy cha mẹ, chú, bác bên nhà chồng.

Lễ cưới kết thúc khi trời đã tối muộn, đoàn khách đến dự cũng đã ra về và đoàn nhà gái là những người ra về sau cùng trong ngày, duy chỉ có 2 phù dâu ở lại ngủ với cô dâu đêm đầu tiên tại nhà chồng. Trước khi cô dâu vào buồng, thày mo sẽ làm lễ trải chiếu và từ đó trở đi không ai được phép vào buồng cô dâu nữa, khi đám cưới kết thúc, đôi trẻ đã thành vợ chồng và ông, bà mối cũng hoàn thành nhiệm vụ.

Lễ lại mặt (hòi lòi) được tiến hành sau lễ cưới 3 ngày, đôi vợ chồng trẻ phải đem đôi gà trống, 2kg thịt lợn, 3 - 4 lít rượu, xôi, chè thuốc về thăm gia đình bố mẹ vợ, chàng rể chỉ ở lại nhà vợ một ngày, sau đó đưa cô dâu quay về nhà mình, đi cảm ơn ông mai bà mối. Đôi vợ chồng mang đến nhà ông, bà mối: 1 kg thịt lợn, xôi, tiền, 1 chiếc khăn mặt và 1 đôi dép, nhận ông bà mối làm bố mẹ nuôi. Ông, bà mối làm vài mâm cơm mời họ hàng bên nhà mình đến dự.

Sau ngày này, cô dâu về sống cùng bố mẹ đẻ trong vài năm đầu và chỉ về nhà chồng vài ngày trong những dịp lễ tết, thu hoạch mùa màng. Mỗi lần như thế, chồng hoặc anh em họ hàng bên chồng đích thân sang đón cô dâu. Chỉ khi nào sắp sinh con đầu lòng (có thai khoảng 7 tháng), cô dâu mới về ở hẳn nhà chồng. Hình thức cư trú bên nhà ngoại trong thời gian đầu mới cưới là tập tục truyền thống, là nguyên tắc khá quan trọng trong hôn nhân của người Nùng Phàn Slình, thực tế là để người mẹ có thời gian dạy dỗ, chỉ bảo con gái cách thức làm vợ, chăm sóc thai nhi và nuôi dạy con cái. Mặt khác, đây cũng là thời gian chăm sóc cha mẹ, như một phần báo hiếu, trả nghĩa công sinh thành, dưỡng dục, đồng thời cha mẹ cũng có quãng thời gian chuẩn bị tâm lý xa con gái, đỡ bị hẫng hụt trong cuộc sống.

Trong trường hợp gia đình nhà gái neo đơn, thiếu nhân lực hoặc có con trai nhưng còn nhỏ thì sẽ làm lễ rể tạm (khủi sình) giống như nghi thức một đám cưới bình thường và người con rể này phải vái lạy tổ tiên, báo cho tổ tiên biết rằng từ nay gia đình có thêm thành viên mới. Bên cạnh đó, lễ cưới rể đời, nhà gái lo tất cả chi phí cho đám cưới. Sau khi cưới, chàng trai ở rể phải đổi sang họ vợ. Kể từ khi thày mo làm lễ xong thì chàng rể đã trở thành một thành viên, một người con trai trong gia đình nhà vợ. Từ đó trở đi, chàng rể đời phải có nhiệm vụ quán xuyến công việc trong gia đình nhà vợ, chăm sóc bố mẹ vợ như bố mẹ mình, phải thờ họ nhà vợ, con cái sẽ mang họ mẹ. Sau khi bố mẹ vợ qua đời, người con rể được thừa hưởng tài sản như một người con trai.

Trước đây, đa thê phổ biến trong xã hội người Nùng Phàn Slình, đó thường là những trường hợp không có con trai hay người vợ không có khả năng sinh đẻ. Nếu vì hai khả năng đó, người vợ cả phải cưới vợ lẽ cho chồng và chấp nhận cùng chung sống với người vợ lẽ. Những năm trở lại đây, các trường hợp lấy vợ lẽ để sinh con trai không được sự ủng hộ của pháp luật và cộng đồng, song nguyện vọng phải có con trai để nối dõi tông đường làm cho hiện tượng đa thê chưa hoàn toàn chấm dứt.

Từ xưa đến nay, hành vi ngoại tình bị cộng đồng thôn bản chê cười và lên án mạnh mẽ, người ngoại tình phải chịu nhiều hình phạt khắt khe. Nếu có thai thì chàng trai chưa vợ, cô gái chưa chồng phải kết hôn với nhau, người vợ ngoại tình sẽ bị cả làng chê cười và bị đuổi khỏi nhà chồng. Đa số trường hợp phải bồi thường tài sản cho nhà chồng (chi phí mà họ bỏ ra để cưới), người chồng ngoại tình thì phải nộp phạt ít nhất một con trâu và một ít tiền bồi thường danh dự cho nhà gái.

Người Nùng Phàn Slình cho phép phụ nữ tái giá và đàn ông lấy vợ kế. Trường hợp người chồng gặp rủi ro qua đời, người vợ vẫn ở lại chăm sóc bố mẹ chồng, con cái một thời gian, sau ba năm hết tang có thể đi lấy chồng khác. Nếu có con thì để lại cho bố mẹ chồng nuôi hoặc mang theo, tài sản của người chồng quá cố do anh em bên chồng quản lý, ra khỏi nhà chỉ được mang theo con và đồ đạc cá nhân. Trường hợp người đàn ông góa vợ cũng chỉ được lấy vợ kế khi đã hết tang vợ ba năm. Người vợ kế này thường là người đàn bà đã có một đời chồng, chi phí cho đám cưới không tốn kém lắm và người đến dự đám cưới thường là anh em họ hàng, thân thuộc của hai bên gia đình.

Có thể nói, hôn nhân của người Nùng Phàn Slình thể hiện rõ các đặc trưng văn hóa tộc người qua nguyên tắc hôn nhân, nghi thức cưới xin. Hiện nay, các nghi lễ và hình thức trong hôn nhân đã giảm một cách đáng kể, đặc biệt là đối với những người đang sống ở thị trấn. Tuy nhiên, đối với những cư dân ở vùng sâu, vùng xa thì quan niệm trong hôn nhân vẫn còn mang đậm chất truyền thống.
Đàm Minh Phượng


Hôn nhân là mối quan hệ xuất phát từ lợi ích của gia đình, dòng họ, sau đó mới đến hạnh phúc của đôi trai gái. Trải qua bao thế hệ, cưới xin của người Nùng Phàn Slình đã trở thành phong tục, mang bản sắc riêng với những quy định thống nhất về nghi lễ và phương thức tổ chức nhất định. Ngày cưới không chỉ quan trọng với đôi trai gái, nó còn có ý nghĩa là cha mẹ đã làm tròn nghĩa vụ, trách nhiệm nuôi dạy con cái trưởng thành.

Tiêu chí lựa chọn bạn đời
Tiêu chuẩn lựa chọn một người vợ lý tưởng gồm có: tính tình, khả năng lao động, sức khỏe, biết quản lý công việc trong nhà và đặc biệt là tài xe chỉ, dệt vải. Công việc chính của người phụ nữ là làm tất cả những sản phẩm của nghề dệt như quần áo, chăn (mặt phà), gối đệm... một cách khéo léo. Khi lựa chọn chàng rể, người ta thường lưu ý đến sức khỏe, khả năng lao động, cày bừa thành thạo, săn bắn giỏi, biết làm mộc, chăm chỉ làm ăn, giỏi nghề rèn và đạo đức tốt. Tóm lại, người chồng biết làm mọi việc, làm chủ gia đình sau này sẽ được mọi người coi trọng.

Trong xã hội truyền thống, độ tuổi kết hôn thường rất sớm, nữ trung bình từ 15 đến 17 tuổi, nam từ 14 đến 16 tuổi. Và, hôn nhân thường diễn ra sớm hơn do việc so lá số, dạm hỏi đã được làm từ nhiều năm trước. Họ cho rằng, con cái từ 15 tuổi trở lên đã là người lớn, các chàng trai, cô gái bắt đầu cảm nhận được tình cảm của người khác giới.

Trong quá khứ, người Nùng Phàn Slình bị chi phối bởi chế độ gia đình phụ quyền gia trưởng, việc nhân duyên hoàn toàn do cha mẹ quyết định. Do vậy, hôn nhân không hoàn toàn dựa trên sự hiểu biết và tình cảm thương yêu nhau của đôi trai gái, mà bị quy định bởi những quan hệ gia đình, xã hội. Những tính toán về kinh tế, địa vị xã hội, về số mệnh vẫn còn hiện hữu sâu sắc trong suy nghĩ của họ, chính vì thế, trong nhiều trường hợp, kết hôn là do bố mẹ kén chọn. Tiêu chuẩn chọn vợ, chọn chồng phải xứng đáng với đẳng cấp của dòng họ, địa vị của gia đình. Nhiều khi thịt, rượu, bạc trắng... là những vật để định giá người con gái khi được gả bán, vô tình họ đã trở thành vật phẩm thương mại.

Nguyên tắc hôn nhân
Quy tắc cơ bản trong hôn nhân là phải xác định được lượt lài, đúc lượt (máu mủ) với nhau hay không. Nghĩa là thành viên trong dòng tộc, tính theo huyết thống phía cha là 5 đời, tuyệt đối không được phép lấy nhau. Ai vi phạm quy tắc này sẽ bị coi là mắc tội loạn luân, bị cộng đồng lên án quyết liệt, bị trị tội và phải làm lễ tạ tội với tổ tiên, đôi khi còn bị đuổi ra khỏi nhà và đôi trai gái đó sẽ không được họ hàng công nhận là con cái trong dòng họ. Những trường hợp kết hôn cùng họ, khác chi dù không bị cấm đoán hoàn toàn, nhưng cũng không được khuyến khích.

Người Nùng Phàn Slình thường dựa vào gia phả để xác định những người có cùng họ nội không bao giờ được lấy nhau, trừ những người họ xa, khác chi. Chính vì thế, mỗi dòng họ đều có gia phả, ghi đầy đủ tên tuổi của những người con trai, thậm chí ghi cả họ của người vợ. Trai gái trước khi kết hôn phải ghi rõ họ tên, tuổi, vừa để thày cúng so tuổi xem có hợp không, đồng thời xác định rõ quan hệ huyết thống của đôi trai gái có sai phạm gì không, sau đó mới quyết định ăn hỏi. Họ cũng không cho phép con cô, con cậu được lấy nhau. Việc kết hôn giữa con dì, con già, luật tục không cấm song cũng không khuyến khích, vì vậy những trường hợp kiểu này chỉ là ngoại lệ ở các thôn bản.

Hôn nhân truyền thống thường là những người đồng tộc lấy nhau, bởi lấy người khác tộc sẽ gặp nhiều hạn chế trong quan hệ ứng xử, tâm lý, nếp sống, ngôn ngữ... Vì vậy, nam nữ thanh niên rất ngại lấy người khác tộc. Song, với sự phát triển xã hội, các cuộc hôn nhân hỗn hợp tộc người ngày càng nhiều, phổ biến ở vùng biên giới, vùng cư trú xen cài, nơi quan hệ giao tiếp diễn ra mạnh mẽ. Các cuộc hôn nhân này thường thấy ở các tộc gắn bó với nhau về lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa như Tày, Dao, Kinh, Hoa...

            Các nghi lễ trong hôn nhân
Tục lệ cưới xin thường trải qua nhiều nghi lễ như: lễ dạm ngõ, lễ xin và so lá số, lễ báo lá số, ăn hỏi, lễ cưới chính thức, lễ lại mặt.

Lễ dạm ngõ là nghi thức đầu tiên trong hôn nhân, có ý nghĩa rất quan trọng vì nhà trai có thể biết ý kiến của nhà gái về việc thành hôn như thế nào. Người được chọn làm mối không phân biệt nam nữ, nhưng phải đứng tuổi, gia đình hạnh phúc, đông con, nhiều cháu, nói chuyện khéo léo, có tài ứng xử đối đáp, có uy tín, được nhiều người trong bản kính nể. Lễ dạm ngõ không có thời gian cố định, mà được thực hiện quanh năm, chỉ tránh những ngày xấu, ngày giỗ kỵ của tổ tiên ông bà... Thời gian đi, hướng đi nhiều khi tùy thuộc vào sự sắp xếp của thày cúng. Buổi lễ dạm hỏi chỉ mang tính chất thăm dò nên đồ lễ nhà trai mang sang nhà gái rất đơn giản, gồm có: trầu cau, 1 kg thịt lợn, 2 con gà, 1 chai rượu và vài gói kẹo. Nếu đồng ý, nhà gái đặt lễ lên bàn thờ, mời ông mối ở lại ăn cơm, ngồi nói chuyện. Hôm ấy nhà gái sẽ thịt 2 con gà mà nhà trai mang sang. Nếu không đồng ý, nhà gái sẽ không thịt gà đó mà thịt gà nhà mình để làm cơm thết đãi nhà trai.

Lễ xin lá số (pây pỏi mình), nhà trai chọn ngày lành tháng tốt, chuẩn bị đồ lễ sang nhà gái xin giờ, ngày, tháng, năm sinh của cô gái. Lễ vật nhà trai mang sang thường có chai rượu, con gà, 1 chiếc bánh dầy. Theo phong tục, để linh nghiệm trong việc so mệnh, cô gái tự tay viết ngày, tháng, năm sinh đưa cho nhà trai, chàng trai cũng phải tự viết ngày, tháng, năm sinh đưa cho cha mẹ mình. Sau khi có được lá số của đôi trẻ, cha mẹ của chàng trai mang hai lá số này đến nhờ thày cúng xem có hợp nhau không. Nếu hợp, nhà trai sẽ chủ động chọn ngày lành tháng tốt để sang nhà gái báo lá số đã hợp; nếu không hợp thì nhà trai phải trả lại lá số cho nhà gái và ít tiền bồi thường danh dự cho người con gái. Ở một số nơi, nhà trai không cần sang báo cho nhà gái, sau một thời gian không thấy hồi âm, nhà gái sẽ tự biết.

Sau khi xem số thấy hợp nhau, nhà trai sẽ mang lễ vật sang nhà gái để chính thức báo lá số (páo mình) của đôi trai gái đã hợp nhau. Ông mối và một người thanh niên mang theo đôi gà trống thiến, hai cân gạo nếp, một chai rượu, một bao thuốc lá, tất cả đều buộc bằng lạt nhuộm đỏ, ngụ ý thông báo cho mọi người xung quanh biết là cô gái đã có nơi có chốn. Đại diện nhà gái nhận lễ và đưa lên bàn thờ tổ tiên thắp hương, vì biết chắc chắn đôi trai gái đã hợp số và sẽ trở thành vợ chồng nên buổi lễ được tổ chức rất long trọng và vui vẻ. Tuy nhiên, buổi lễ được tổ chức lớn hay nhỏ là tùy thuộc vào kinh tế của từng gia đình, sau bữa cỗ họ hàng bên nhà gái sẽ thỏa thuận thời gian để tiến hành lễ ăn hỏi.

Lễ ăn hỏi (khả cáy) thực chất là buổi thỏa thuận về đồ lễ cưới giữa nhà trai và nhà gái. Ông mối cùng một em bé trai khoảng 12 - 13 tuổi mang theo đôi gà thiến, 6 - 15 kg thịt lợn, 2 chai rượu, 10 ống gạo nếp, tiền bọc trong vải đỏ, 60 kg gạo tẻ đến nhà gái làm cơm thết đãi họ hàng nhà gái. Tất cả đều là số chẵn hay con số theo cặp đôi, tượng trưng cho lứa đôi trong hôn nhân, với ý nghĩa cầu mong cho sự vuông tròn của đôi vợ chồng trẻ. Khi nhà trai mang lễ sang, đại diện nhà gái đón nhận và dâng lên bàn thờ tổ tiên. Sau đó đại diện nhà trai giới thiệu đoàn nhà trai, tuyên bố lý do và mọi công việc từ đó trở đi nhà gái trao đổi với đại diện của nhà trai. Sau bữa cơm, đại diện hai gia đình bàn bạc, thỏa thuận đồ sính lễ và thời gian tiến hành các nghi lễ tiếp theo. Khi về, nhà gái thường lại quả bánh, gà, thịt lợn, mỗi thứ một nửa gọi là trả gánh hoàn phúc, việc thỏa thuận về lễ vật xưa kia được gọi là tục thách cưới.

Tùy từng gia đình, số lượng đồ sính lễ được thách sẽ khác nhau. Thực hiện việc thách cưới đòi hỏi sự tế nhị, khéo léo của đại diện hai bên, vừa lo tốt chuyện hôn lễ cho đôi trẻ, vừa tránh tự ái và thiệt thòi về mình. Tuy nhiên, lễ vật nhiều hay ít, một phần phụ thuộc vào khả năng đối đáp, ứng khẩu của người làm mối trong lễ hỏi, phần khác phụ thuộc vào khả năng kinh tế của gia đình nhà trai, nhưng lễ vật nhất thiết phải có thịt lợn quay, gà, rượu, 1 dây hồng (làm bằng giấy bạc, màu đỏ), trong ngày cưới sẽ được đặt lên bàn thờ tổ tiên. Ngoài ra, nhà gái cũng phải chuẩn bị thêm một dây hồng để quàng vào cổ chú rể khi vái lạy tổ tiên nhà vợ, nếu trong gia đình anh chị em nào lập gia đình trước phải để lại dây hồng cho người lập gia đình sau. Làm như vậy người lập gia đình sau sẽ được hưởng duyên, may mắn của người đi trước và dây hồng này sẽ được treo mãi trên bàn thờ, kể cả khi các con đã đi lấy chồng, lấy vợ hết.

Sau lễ ăn hỏi, coi như hai gia đình chính thức gả con cho nhau và xem nhau là thông gia, nhà trai chuẩn bị điều kiện vật chất để tổ chức lễ cưới. Nhưng từ lúc này đến lễ cưới, thời gian thường kéo dài từ một đến ba năm, thậm chí lâu hơn. Trong thời gian chờ tổ chức lễ cưới, vào các dịp tết nguyên đán, rằm tháng 7, nhà trai phải mang lễ tới nhà gái, gọi là tục sêu tết.

Lễ cưới là việc quan trọng nhất trong nghi thức kết hôn. Ngoài ý nghĩa tục lệ, nó còn hàm chứa cả ý nghĩa về mặt pháp lý. Đây là nghi lễ để cộng đồng làng bản thừa nhận chính thức việc thành vợ thành chồng của đôi trai gái. Lễ cưới thường được tổ chức từ tháng 8 năm trước đến tháng 2 âm lịch năm sau. Đây là thời gian rảnh rỗi, mùa màng đã thu hoạch xong, lương thực, thực phẩm dồi dào, thời tiết mát mẻ, phù hợp với hôn lễ. Theo quan niệm truyền thống, nếu tổ chức lễ cưới vào tháng 3, 4 âm lịch thì đôi trai gái sẽ khó thành vợ chồng. Người Nùng Phàn Slình kiêng một năm không được gả chồng cho 2 chị em, một tháng không tổ chức hai đám cưới, còn nếu tổ chức vào hai tháng này thì chỉ dành cho những cô gái đã bị nhỡ nhàng.

Lễ cưới thường diễn ra 3 ngày ở hai bên gia đình. Thông thường bên nhà gái tổ chức trước, nhà trai tổ chức sau, song cũng có nơi tổ chức cùng ngày, nếu lễ cưới rể đời (1) thì ngược lại. Theo quan niệm của người Nùng Phàn Slình, nếu hôm cưới sáng sớm có mưa phùn, buổi chiều hửng nắng thì sau này đôi trai gái sẽ làm ăn thuận buồm xuôi gió; nếu có sấm sét, việc ắt sẽ khó khăn, những điều rủi ro có thể xảy ra đối với họ.

Tại nhà trai, khoảng 8 - 9 giờ sáng, những người trong đoàn đi đón dâu ăn mặc đẹp, dẫn đầu là ông mối, tiếp đến là chàng rể, 2 phù rể, 1 ông đón, 1 bà đón, 4 thanh niên khiêng lợn quay, 1 bé trai gánh xôi, 1 bé gái gánh đôi gà thiến, 2 con gà luộc, 1 dải lụa hồng và 1 mảnh vải (khoảng 2 mét) gọi là vải tùm khớ để trả công ơn mang nặng đẻ đau cho mẹ cô dâu.

Trang phục của chú rể và phù rể như nhau, không khác gì ngày thường mà chỉ khác là họ thường mặc bộ quần áo mới nhất, đẹp nhất, cắt may từ loại vải tốt, đẹp nhất mà gia đình tự dệt hoặc mua ở chợ. Áo chàm đen, kiểu cổ cứng, xẻ ngực, khuy cài bằng dây vải, thường có 4 túi, dài quá mông, quần được cắt từ vải đen nhuộm chàm, phần cạp là vải khác màu. Dây lưng làm bằng sợi vải bện hoặc sợi dù luôn buộc sẵn ở eo. Trước kia nam giới cũng thường búi tó sau gáy rồi chít khăn đen, nhưng đến nay thường mặc âu phục và cắt tóc ngắn. Trước giờ đi đón dâu, người ta thường làm lễ cúng tổ tiên, theo tục lệ từ trong nhà đi ra không ai trong đoàn đón dâu được dẫm chân vào bậc cửa chính.

Khi đoàn nhà trai đến nơi, nhà gái cử một người đại diện ra đón và một số người khác ra phụ khiêng lễ vật vào nhà. Ông thày cúng là người đầu tiên bước chân vào nhà cô dâu, tiếp đó là ông, bà mối, rồi chú rể, 2 phù rể và những người khiêng lễ vật. Tiếp theo, ông, bà mối thông báo lễ vật nhà trai mang đến và nhà gái mở ra kiểm tra. Sau đó, nhà gái lấy dải lụa hồng nhà trai mang đến buộc vào bàn thờ tổ tiên, đồng thời mang dải lụa hồng đã được chuẩn bị từ trước để thày cúng buộc vào người chú rể. Khi thày cúng châm nến lên bàn thờ để khấn, chú rể quỳ trước bàn thờ, 2 bên là 2 phù rể. Lúc này ông, bà mối rót 2 chén rượu rồi thông báo cho nhà gái biết giờ rước dâu, chú rể phải làm lễ ra mắt và lạy tạ từng người bậc trên bên họ hàng nhà gái. Làm xong, ai cũng mừng tiền cho chú rể.

Trang phục của cô dâu cũng được cắt may từ vải chàm đen, áo kiểu 5 thân cài cúc sang nách, thân áo dài quá mông, mép ống tay áo được can thêm miếng vải màu xanh khác với màu áo. Chỗ khuy cài ở vạt áo phía trước cũng được viền một băng vải màu xanh, cổ đứng, áo luôn đi kèm với thắt lưng. Quần kiểu chân què đũng rộng, ống rộng, cạp rộng, thắt bằng 1 sợi dây vải, ống quần thường dài tới mắt cá chân. Cô dâu chít khăn đen hình vuông kiểu mỏ quạ, phù dâu cũng mặc giống cô dâu.

Trong lễ cưới, tại nhà gái, các cuộc hát xướng (cò lảu) giữa các vị khách và cô dâu, chú rể diễn ra từ lúc nhà trai đến cho tới khi đón cô dâu về nhà chồng. Các điệu hát sli chỉ diễn ra khi khách khứa đã có mặt đông đủ trong đám cưới, chú rể và ông, bà mối là những người phải lĩnh các vế đối đó.

Theo tục lệ, người được mời đến dự đám cưới thường mang theo 2 loại tiền mừng: thứ nhất là tiền được ghi vào sổ, gia đình sẽ giao cho một người đứng ra ghi chép cẩn thận sau này còn phúc đáp lại; thứ hai là tiền mừng riêng cho cô dâu, chú rể khi đi mời khách ăn trầu, hút thuốc, uống rượu, không ghi vào sổ sách. Để tỏ lòng cảm ơn họ hàng nội ngoại và khách quý, khi đi mời trầu, thuốc, cô dâu chú rể cũng có quà biếu, được đặt trên khay trầu thuốc và đưa đến từng người một.

Đến giờ đón dâu, thày cúng lấy một tấm vải ra đứng trước bàn thờ tổ tiên nhà gái để xin gói khăn (vía) của cô dâu về nhà, tấm khăn đó được gấp lại và được đại diện nhà trai mang về đặt trên bàn thờ tổ tiên. Khi bước chân xuống sàn, nếu là người đầu tiên lập gia đình, cô dâu phải quàng tấm vải đỏ lên vai anh chị của mình, thì người đó mới không bị xui xẻo và sau này mới có thể lấy được vợ, được chồng.

Theo phong tục, hai phù dâu cùng cô dâu về nhà chồng. Cô dâu mang theo một hòm gỗ đựng quần áo, một bộ ấm chén, một phích nước, một chậu rửa mặt, một chậu rửa chân, một chiếc chăn, một chiếc màn, xoong, nồi và toàn bộ số lễ vật mà nhà trai đã đưa tiền cho nhà gái sắm. Ngoài ra, cô dâu còn phải mang theo một ít khăn mặt để khi về đến nhà chồng còn biếu ông nội, ông bác, ông chú chồng.

Trên đường về nhà chồng, nếu gặp đám cưới đi ngược chiều thì 2 cô dâu thường đổi khăn hoặc nón, dép cho nhau. Khi về đến nhà chồng, cô dâu phải chờ đến giờ tốt mới được bước vào nhà, sau khi thực hiện một số nghi lễ thanh sạch. Lúc này, trước cửa nhà trai đã được thày cúng đặt sẵn một chậu nước trong đó có một cành lá xanh, khi cô dâu đang chuẩn bị bước chân vào nhà, thày mo cầm cành lá phất nhẹ vài giọt nước vào chân cô dâu, ý muốn xua đi mọi điều không tốt ở người cô dâu khi bước chân vào nhà chồng. Sau khi đã được mời vào nhà, cô dâu cũng phải thực hiện các thủ tục như chàng rể đã làm ở nhà cô dâu, sau đó cô dâu cùng chú rể đi vái lạy cha mẹ, chú, bác bên nhà chồng.

Lễ cưới kết thúc khi trời đã tối muộn, đoàn khách đến dự cũng đã ra về và đoàn nhà gái là những người ra về sau cùng trong ngày, duy chỉ có 2 phù dâu ở lại ngủ với cô dâu đêm đầu tiên tại nhà chồng. Trước khi cô dâu vào buồng, thày mo sẽ làm lễ trải chiếu và từ đó trở đi không ai được phép vào buồng cô dâu nữa, khi đám cưới kết thúc, đôi trẻ đã thành vợ chồng và ông, bà mối cũng hoàn thành nhiệm vụ.

Lễ lại mặt (hòi lòi) được tiến hành sau lễ cưới 3 ngày, đôi vợ chồng trẻ phải đem đôi gà trống, 2kg thịt lợn, 3 - 4 lít rượu, xôi, chè thuốc về thăm gia đình bố mẹ vợ, chàng rể chỉ ở lại nhà vợ một ngày, sau đó đưa cô dâu quay về nhà mình, đi cảm ơn ông mai bà mối. Đôi vợ chồng mang đến nhà ông, bà mối: 1 kg thịt lợn, xôi, tiền, 1 chiếc khăn mặt và 1 đôi dép, nhận ông bà mối làm bố mẹ nuôi. Ông, bà mối làm vài mâm cơm mời họ hàng bên nhà mình đến dự.

Sau ngày này, cô dâu về sống cùng bố mẹ đẻ trong vài năm đầu và chỉ về nhà chồng vài ngày trong những dịp lễ tết, thu hoạch mùa màng. Mỗi lần như thế, chồng hoặc anh em họ hàng bên chồng đích thân sang đón cô dâu. Chỉ khi nào sắp sinh con đầu lòng (có thai khoảng 7 tháng), cô dâu mới về ở hẳn nhà chồng. Hình thức cư trú bên nhà ngoại trong thời gian đầu mới cưới là tập tục truyền thống, là nguyên tắc khá quan trọng trong hôn nhân của người Nùng Phàn Slình, thực tế là để người mẹ có thời gian dạy dỗ, chỉ bảo con gái cách thức làm vợ, chăm sóc thai nhi và nuôi dạy con cái. Mặt khác, đây cũng là thời gian chăm sóc cha mẹ, như một phần báo hiếu, trả nghĩa công sinh thành, dưỡng dục, đồng thời cha mẹ cũng có quãng thời gian chuẩn bị tâm lý xa con gái, đỡ bị hẫng hụt trong cuộc sống.

Trong trường hợp gia đình nhà gái neo đơn, thiếu nhân lực hoặc có con trai nhưng còn nhỏ thì sẽ làm lễ rể tạm (khủi sình) giống như nghi thức một đám cưới bình thường và người con rể này phải vái lạy tổ tiên, báo cho tổ tiên biết rằng từ nay gia đình có thêm thành viên mới. Bên cạnh đó, lễ cưới rể đời, nhà gái lo tất cả chi phí cho đám cưới. Sau khi cưới, chàng trai ở rể phải đổi sang họ vợ. Kể từ khi thày mo làm lễ xong thì chàng rể đã trở thành một thành viên, một người con trai trong gia đình nhà vợ. Từ đó trở đi, chàng rể đời phải có nhiệm vụ quán xuyến công việc trong gia đình nhà vợ, chăm sóc bố mẹ vợ như bố mẹ mình, phải thờ họ nhà vợ, con cái sẽ mang họ mẹ. Sau khi bố mẹ vợ qua đời, người con rể được thừa hưởng tài sản như một người con trai.

Trước đây, đa thê phổ biến trong xã hội người Nùng Phàn Slình, đó thường là những trường hợp không có con trai hay người vợ không có khả năng sinh đẻ. Nếu vì hai khả năng đó, người vợ cả phải cưới vợ lẽ cho chồng và chấp nhận cùng chung sống với người vợ lẽ. Những năm trở lại đây, các trường hợp lấy vợ lẽ để sinh con trai không được sự ủng hộ của pháp luật và cộng đồng, song nguyện vọng phải có con trai để nối dõi tông đường làm cho hiện tượng đa thê chưa hoàn toàn chấm dứt.

Từ xưa đến nay, hành vi ngoại tình bị cộng đồng thôn bản chê cười và lên án mạnh mẽ, người ngoại tình phải chịu nhiều hình phạt khắt khe. Nếu có thai thì chàng trai chưa vợ, cô gái chưa chồng phải kết hôn với nhau, người vợ ngoại tình sẽ bị cả làng chê cười và bị đuổi khỏi nhà chồng. Đa số trường hợp phải bồi thường tài sản cho nhà chồng (chi phí mà họ bỏ ra để cưới), người chồng ngoại tình thì phải nộp phạt ít nhất một con trâu và một ít tiền bồi thường danh dự cho nhà gái.

Người Nùng Phàn Slình cho phép phụ nữ tái giá và đàn ông lấy vợ kế. Trường hợp người chồng gặp rủi ro qua đời, người vợ vẫn ở lại chăm sóc bố mẹ chồng, con cái một thời gian, sau ba năm hết tang có thể đi lấy chồng khác. Nếu có con thì để lại cho bố mẹ chồng nuôi hoặc mang theo, tài sản của người chồng quá cố do anh em bên chồng quản lý, ra khỏi nhà chỉ được mang theo con và đồ đạc cá nhân. Trường hợp người đàn ông góa vợ cũng chỉ được lấy vợ kế khi đã hết tang vợ ba năm. Người vợ kế này thường là người đàn bà đã có một đời chồng, chi phí cho đám cưới không tốn kém lắm và người đến dự đám cưới thường là anh em họ hàng, thân thuộc của hai bên gia đình.

Có thể nói, hôn nhân của người Nùng Phàn Slình thể hiện rõ các đặc trưng văn hóa tộc người qua nguyên tắc hôn nhân, nghi thức cưới xin. Hiện nay, các nghi lễ và hình thức trong hôn nhân đã giảm một cách đáng kể, đặc biệt là đối với những người đang sống ở thị trấn. Tuy nhiên, đối với những cư dân ở vùng sâu, vùng xa thì quan niệm trong hôn nhân vẫn còn mang đậm chất truyền thống.
Đàm Minh Phượng

Nét đẹp lễ vào nhà mới của người Tày - Nùng (Triệu Thị Mai)

Làm xong căn nhà mới, người Tày - Nùng thường chọn ngày tốt để làm lễ vào nhà mới. Việc chọn ngày phải nhờ đến các thầy Tào hoặc Phựt, Then, Dàng… Lễ vào nhà mới thường được chuẩn bị chu đáo, gồm hai phần: Đưa bát hương tổ tiên vào nhà mới; mọi người đến chúc mừng nhà mới.

Thủ tục đưa bát hương tổ tiên vào nhà mới bao giờ cũng có một con lợn. Lợn thịt được dâng lên cả con phủ phục trước bàn thờ có cả tiết canh, lục phủ ngũ tạng, được bày thành hàng trước bàn thờ. Bánh trái mọi người đến mừng được đặt trong làn xếp hàng dọc trước bàn thờ. Người Tày - Nùng hay làm bánh dày với các màu nhuộm bằng lá cây rừng, như màu tím nhuộm bằng lá cẩm, màu vàng nhuộm bằng củ nghệ, màu xanh nhuộm bằng lá gừng, màu đen nhuộm bằng lá cây xau xau...  Các loại bánh nhuộm bằng lá cây tự nhiên này thơm, dẻo, bảo quản được tốt hơn.
Bên ngoài nhà đặt mâm cúng ngoại thần cả lễ tạp lẫn lễ chay đầy đủ lục phủ ngũ tạng như trong nhà. Nếu dỡ nhà cũ để làm lại, bát hương được chuyển ra ngoài, khi hoàn thành chỉ cần chuyển vào nhà. Trong trường hợp con cái tách hộ ra ở riêng thì lập bát hương mới đem vào nhà.
Thủ tục lập bát hương mới như sau: Gia chủ chuẩn bị hai mâm, một mâm đặt ba bát gạo và một chiếc ô hoặc nón để rước bát hương từ nhà tổ tiên sang nhà mới; mâm thứ hai đặt thủ lợn cùng bốn móng, gà, xôi, bánh trái, rượu, đèn… Đến nhà thờ tổ tiên xin chân hương, hai mâm cỗ, lễ được dâng lên các vị. Sau ba tuần rượu rót mời, thầy cúng xin các vị tổ tiên được xin chân hương về cho con cháu. Thầy báo lên tổ tiên họ, nhà…, và xưng họ tên pháp danh của thầy được gia chủ nhờ đến nhà làm lễ xin các cụ chân hương để đưa về nhà thờ cúng với nội dung nhờ tổ tiên phù hộ cho con cháu: “Lủc tầư cụng dà/Kha tầư cụng hốm” (dịch nghĩa: Con nào cũng phù hộ/Nhánh nào cũng chở che).
Cúng xong, thầy cho gia chủ rút lấy mỗi bát hương ba chân hương, chân được cắm vào bát gạo dưới mâm lễ (nếu nhà xa không đem theo bát gạo thì các chân hương được gói để riêng bằng ba loại giấy màu khác nhau (tránh nhầm lẫn giữa các bát hương). Nếu nhà đặt năm bát thì lấy năm gói. Chân hương đem về đến nhà, thầy làm phép xua tà quỷ rồi gia chủ mới đưa chân hương lên bàn thờ tổ tiên theo thứ tự xếp sẵn như bên nhà tổ tiên.

Anh em họ hàng ruột thịt đến mừng nhà mới bao giờ cũng có gạo, rượu và câu đối mừng nhà mới. Bà con láng giềng thì mừng gạo, rượu, bánh, trái, xôi gà và tiền… Người ta đưa một bó lúa nếp cùng chiếc cân làm bằng gỗ tượng trưng đặt lên trên cây thượng lương trên nhà. Lúa tượng trưng cho sự no đủ. Chiếc cân tượng trưng cho việc mua bán thuận lợi, phát đạt.

Trước đây người Nùng Khen Lài ở vùng Thái Đức (Hạ Lang) còn có tục khi thông gia đến mừng nhà mới họ đặt bánh trước cửa rồi cầm bánh lăng qua cây xà ngang trong nhà, người ngoài ném vào, người trong ném ra, mọi người đến dự nhặt bánh làm phước. Tục này thể hiện sự no đủ của căn nhà đầy hồng phúc. Mọi người ăn uống vui vẻ.

Thầy cúng ngồi trước mâm hương, tay cầm bộ gõ nhỏ đọc bài mo tẩy uế cầu sự yên lành tốt đẹp cho căn nhà. Bài mo nhà mới của người Nùng có đoạn: Hôm nay được ngày tốt/Điểm sách với người Hoa/Tra sách với người Kinh/Xem ngày với thầy già/Mười người nói hôm nay thật lành/Trăm người nói hôm nay thật tốt/Ngày thiên khai đại xá/Ngày lộc mã quí nhân/Cung trời đất mở song/Cung Ngọc Hoàng mở cửa/Ngày ngũ phúc tới nhà/ Ngày yến yêu tới đón... Hoàng Đế về trợ tôi giải uế dương gian/Trợ tôi đuổi uế ra đồi/Ma chết ra bãi/Uế đen uế đỏ uế slinh tẩy rửa/Uế cây gẫy ngọn hồn ma mới chết/Uế ma thì xuống dưới sàn/Uế đười ươi thì về núi/Uế quạ thì về cây/Tôi xin cầm hoa vào thỉnh/Cầm lấy mệnh vào trình/Trình rõ cả họ cả rõ tên/Họ vạn tên sinh chốn dương gian gia/Hoàn Văn A gia chủ/Dựng lán đã thành/Dựng nhà đã nên/Dẫn ông bà cha mẹ/Đi ruộng mang hoa/Về nhà mang uế/Mời con Sở đến sàn/Nhờ slao đón tôi đến dưới sân/Tôi chọn được ngày tốt/Tôi kén được ngày hay... ngày... tháng... năm... Hôm nay được ngày quét/Tôi chẳng to hơn Vương/Tôi chẳng lớn hơn thầy/Xin chổi cho hai cái/Xin thạ xuống hai đôi/Hộ tôi quét tôi phẩy đi/Để họ Gia, Hoàng Văn Mõ/Nhà sạch, gia trạch bình an/Ông thầy sẽ xuống ngự/Thần tiên sẽ xuống ngự/Mùng một xuống đi ngựa/Hôm rằm xuống hàng hương/Đến sớm chẳng về suông/Đến muộn chẳng về không/Đến sớm được ăn nhiều/Đến chậm được ăn lắm… Mời Nam phương sát uế/Mời Bắc phương sát uế/Mời Trung phương sát uế… Uế ngã thì về đồi/Uế chết thì về thung/ Uế ma thì xuống sàn/Uế vượn thì về núi/Uế quạ thì về cây… Ra cửa én của én/Ra cuối sàn sảy gạo… Đi chốn châu diêm âm xa lắc/Nơi Quí Châu xa vời/Ngàn năm mày chẳng nhớ/Vạn đời mày chẳng về/Phẩy uế đi khỏi mường.
Lễ vào nhà mới là một trong những nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa của người Tày - Nùng, mang nhiều giá trị về nghệ thuật, văn hóa, lịch sử… Ngoài ra còn thể hiện sự đoàn kết của người Tày - Nùng giữa gia đình và cộng đồng.

 Triệu Thị Mai
Làm xong căn nhà mới, người Tày - Nùng thường chọn ngày tốt để làm lễ vào nhà mới. Việc chọn ngày phải nhờ đến các thầy Tào hoặc Phựt, Then, Dàng… Lễ vào nhà mới thường được chuẩn bị chu đáo, gồm hai phần: Đưa bát hương tổ tiên vào nhà mới; mọi người đến chúc mừng nhà mới.

Thủ tục đưa bát hương tổ tiên vào nhà mới bao giờ cũng có một con lợn. Lợn thịt được dâng lên cả con phủ phục trước bàn thờ có cả tiết canh, lục phủ ngũ tạng, được bày thành hàng trước bàn thờ. Bánh trái mọi người đến mừng được đặt trong làn xếp hàng dọc trước bàn thờ. Người Tày - Nùng hay làm bánh dày với các màu nhuộm bằng lá cây rừng, như màu tím nhuộm bằng lá cẩm, màu vàng nhuộm bằng củ nghệ, màu xanh nhuộm bằng lá gừng, màu đen nhuộm bằng lá cây xau xau...  Các loại bánh nhuộm bằng lá cây tự nhiên này thơm, dẻo, bảo quản được tốt hơn.
Bên ngoài nhà đặt mâm cúng ngoại thần cả lễ tạp lẫn lễ chay đầy đủ lục phủ ngũ tạng như trong nhà. Nếu dỡ nhà cũ để làm lại, bát hương được chuyển ra ngoài, khi hoàn thành chỉ cần chuyển vào nhà. Trong trường hợp con cái tách hộ ra ở riêng thì lập bát hương mới đem vào nhà.
Thủ tục lập bát hương mới như sau: Gia chủ chuẩn bị hai mâm, một mâm đặt ba bát gạo và một chiếc ô hoặc nón để rước bát hương từ nhà tổ tiên sang nhà mới; mâm thứ hai đặt thủ lợn cùng bốn móng, gà, xôi, bánh trái, rượu, đèn… Đến nhà thờ tổ tiên xin chân hương, hai mâm cỗ, lễ được dâng lên các vị. Sau ba tuần rượu rót mời, thầy cúng xin các vị tổ tiên được xin chân hương về cho con cháu. Thầy báo lên tổ tiên họ, nhà…, và xưng họ tên pháp danh của thầy được gia chủ nhờ đến nhà làm lễ xin các cụ chân hương để đưa về nhà thờ cúng với nội dung nhờ tổ tiên phù hộ cho con cháu: “Lủc tầư cụng dà/Kha tầư cụng hốm” (dịch nghĩa: Con nào cũng phù hộ/Nhánh nào cũng chở che).
Cúng xong, thầy cho gia chủ rút lấy mỗi bát hương ba chân hương, chân được cắm vào bát gạo dưới mâm lễ (nếu nhà xa không đem theo bát gạo thì các chân hương được gói để riêng bằng ba loại giấy màu khác nhau (tránh nhầm lẫn giữa các bát hương). Nếu nhà đặt năm bát thì lấy năm gói. Chân hương đem về đến nhà, thầy làm phép xua tà quỷ rồi gia chủ mới đưa chân hương lên bàn thờ tổ tiên theo thứ tự xếp sẵn như bên nhà tổ tiên.

Anh em họ hàng ruột thịt đến mừng nhà mới bao giờ cũng có gạo, rượu và câu đối mừng nhà mới. Bà con láng giềng thì mừng gạo, rượu, bánh, trái, xôi gà và tiền… Người ta đưa một bó lúa nếp cùng chiếc cân làm bằng gỗ tượng trưng đặt lên trên cây thượng lương trên nhà. Lúa tượng trưng cho sự no đủ. Chiếc cân tượng trưng cho việc mua bán thuận lợi, phát đạt.

Trước đây người Nùng Khen Lài ở vùng Thái Đức (Hạ Lang) còn có tục khi thông gia đến mừng nhà mới họ đặt bánh trước cửa rồi cầm bánh lăng qua cây xà ngang trong nhà, người ngoài ném vào, người trong ném ra, mọi người đến dự nhặt bánh làm phước. Tục này thể hiện sự no đủ của căn nhà đầy hồng phúc. Mọi người ăn uống vui vẻ.

Thầy cúng ngồi trước mâm hương, tay cầm bộ gõ nhỏ đọc bài mo tẩy uế cầu sự yên lành tốt đẹp cho căn nhà. Bài mo nhà mới của người Nùng có đoạn: Hôm nay được ngày tốt/Điểm sách với người Hoa/Tra sách với người Kinh/Xem ngày với thầy già/Mười người nói hôm nay thật lành/Trăm người nói hôm nay thật tốt/Ngày thiên khai đại xá/Ngày lộc mã quí nhân/Cung trời đất mở song/Cung Ngọc Hoàng mở cửa/Ngày ngũ phúc tới nhà/ Ngày yến yêu tới đón... Hoàng Đế về trợ tôi giải uế dương gian/Trợ tôi đuổi uế ra đồi/Ma chết ra bãi/Uế đen uế đỏ uế slinh tẩy rửa/Uế cây gẫy ngọn hồn ma mới chết/Uế ma thì xuống dưới sàn/Uế đười ươi thì về núi/Uế quạ thì về cây/Tôi xin cầm hoa vào thỉnh/Cầm lấy mệnh vào trình/Trình rõ cả họ cả rõ tên/Họ vạn tên sinh chốn dương gian gia/Hoàn Văn A gia chủ/Dựng lán đã thành/Dựng nhà đã nên/Dẫn ông bà cha mẹ/Đi ruộng mang hoa/Về nhà mang uế/Mời con Sở đến sàn/Nhờ slao đón tôi đến dưới sân/Tôi chọn được ngày tốt/Tôi kén được ngày hay... ngày... tháng... năm... Hôm nay được ngày quét/Tôi chẳng to hơn Vương/Tôi chẳng lớn hơn thầy/Xin chổi cho hai cái/Xin thạ xuống hai đôi/Hộ tôi quét tôi phẩy đi/Để họ Gia, Hoàng Văn Mõ/Nhà sạch, gia trạch bình an/Ông thầy sẽ xuống ngự/Thần tiên sẽ xuống ngự/Mùng một xuống đi ngựa/Hôm rằm xuống hàng hương/Đến sớm chẳng về suông/Đến muộn chẳng về không/Đến sớm được ăn nhiều/Đến chậm được ăn lắm… Mời Nam phương sát uế/Mời Bắc phương sát uế/Mời Trung phương sát uế… Uế ngã thì về đồi/Uế chết thì về thung/ Uế ma thì xuống sàn/Uế vượn thì về núi/Uế quạ thì về cây… Ra cửa én của én/Ra cuối sàn sảy gạo… Đi chốn châu diêm âm xa lắc/Nơi Quí Châu xa vời/Ngàn năm mày chẳng nhớ/Vạn đời mày chẳng về/Phẩy uế đi khỏi mường.
Lễ vào nhà mới là một trong những nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa của người Tày - Nùng, mang nhiều giá trị về nghệ thuật, văn hóa, lịch sử… Ngoài ra còn thể hiện sự đoàn kết của người Tày - Nùng giữa gia đình và cộng đồng.

 Triệu Thị Mai

Đặc điểm kiến trúc của dân tộc Tày - Nùng ( Lý Thị Ninh)

Vùng núi phía Bắc Việt Nam là khu vực có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Qua hàng trăm năm, cuộc sống của các dân tộc ít biến đổi, kiến trúc nhà ở của họ vẫn giữ được nét văn hóa sơ khai từ xưa đến nay.
Người Nùng thường ở nhà sàn hoặc nhà đất hoặc nhà nửa sàn nửa đất tùy theo điều kiện địa hình, trong đó nhà sàn là kiểu nhà ưa thích của họ. Nhà thường khá to, rộng, có 3 gian, vách thường bằng gỗ và lợp ngói âm dương.

Mái ngói âm dương
Nhà được chia làm hai phần bởi vách ngăn, trừ một lối đi ở gian giữa. Phần trong đặt bếp là nơi sinh hoặt chủ yếu của phụ nữ trong gia đình. Phần ngoài dành cho nam giới và đặt bàn thờ tổ tiên. Phía sau nhà có cầu thang phụ, ở đấy có máng nước dùng để tắm rửa. Phân chia này cũng đều áp dụng với khách nam và nữ.

Nhà của người Tày - Nùng có đặc trưng riêng không giống các cư dân khác trong cùng nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Bộ khung nhà Tày - Nùng cũng được hình thành trên cơ sở các kiểu Vì kèo. Có nhiều kiểu vì vèo khác nhau, nhưng chủ yếu đều bắt nguồn từ kiểu vì kèo - ba cột. Để mở rộng lòng nhà người ta thêm 1 hoặc 2 cột vào 2 bếp, vì kèo 3 cột trở thành vì kèo 5 hoặc 7 cột. Song không có vì kèo nào vượt quá con số 7.

Bộ khung nhà có 2 đặc trưng:
- Ô vì kèo, đứng trên lưng xà, kẹp giữa 2 cột có một trụ ngắn hình "quả bí"(hay quả dưa) đấu đầu vào thân kèo.

- Để liên kết các cột trong một vì kèo hay giữa các vì kèo với nhau, người ta không dùng các đoạn xà ngắn mà dùng một thanh gỗ dài xuyên qua thân các cột.

Mặt bằng sinh hoạt cảu nhà Tày - Nùng cơ bản là giống nhau , mặt sàn chia làm 2 phần: một là dành cho sinh hoạt của nữmột dành cho sinh hoạt của nam. Các phòng ngủ và nơi ngủ cảu mọi thành viên trog nhà đều giáp vách tiền và hậu.

Nói đến nhà Tày - Nùng có lẽ không nên bỏ qua một loại hình nhà khá đặc biệt đó là " nhà phòng thủ". Thường có sự kết hợp giữa nhà đất và nhà sàn ( đúng hơn là nhà tầng). Tường xây bằng gạch hoặc trình bằng đất rất dày ( 40 - 60cm)để chống đạn. Trên tường còn được đục nhiều lỗ châu mai. Có nhà còn có lô cốt chiến đấu. Loại nhà này chỉ có ở Lạng Sơn gần biên giới phía Bắc để phòng chống trộm cướp.

Nhiều đời nay, bà con dân tộc Tày, Nùng Lạng Sơn, sống dọc biên giới Việt-Trung, thường xây dựng nhà giữa lưng chừng núi, với những kiểu nhà mang tính chất phòng thủ. Người dân Xứ Lạng thường gọi là nhà pháo đài..

Nhà pháo đài vừa để ở, vừa có thể trở thành một lô cốt giúp nhân dân tự bảo vệ và đánh trả bọn cướp. Bởi do đặc thù của một tỉnh miền núi, biên giới, bà con các dân tộc Tày, Nùng sống rải rác ở các vùng núi cao, đồi núi, nhiều dân cư thưa thớt. Mỗi một thôn, bản chỉ vài nóc nhà, mỗi nhà cách nhau vài cây số. Chính vì thế để tự bảo vệ mình và bảo vệ biên cương, từ bao đời nay, bà con các dân tộc đã nghĩ ra những kiểu nhà độc đáo.

Nhà pháo đài gồm một nhà chính để ở, các bộ phận khác như bếp, chuồng trại nuôi gia súc, gia cầm được nối liền với nhà chính bằng một hành lang khép kín toàn bộ. Ðồng bào thường làm nhà theo kiểu trình tường bằng đất hoặc xây bằng gạch mộc, nhưng phổ biến nhất là nhà trình tường. Ðể chuẩn bị làm được nhà, đồng bào phải chuẩn bị trước vài năm. Quá trình làm nhà bắt đầu từ khâu san nền nhà, xây tường bằng cách đóng khuôn với hai tấm gỗ dài hơn hai mét, chiều cao 40 cm, rộng từ 30 đến 35 cm. Khi trình thì đổ đất vào khuôn sau đó từ ba đến bốn người dùng chày gỗ nện thật chặt, rồi dùng những thanh tre vào giữa khuôn để kết nối với các khuôn khác... Nhà dạng này thường làm hai mái, mái lợp bằng ngói âm dương. Thông thường nhà pháo đài được làm thành hai tầng: tầng trên và tầng dưới, chung quanh tường nhà có lỗ châu mai. Kết cấu nhà pháo đài gồm có nhiều gian, ngăn này thông ra ngăn kia, có cửa gỗ kiên cố chia cắt từng ngăn. Nhà pháo đài thường có gác bằng gỗ ván. Nhà ở chính bao giờ cũng có hiên ở đằng trước xây thành một hành lang phòng thủ có cửa sổ và lỗ châu mai. Phía chính cửa gia chủ còn làm một giàn đá tảng rất chắc. Nếu kẻ gian vào lập tức sẽ bị giàn đá đổ ập xuống. Ngoài ra trong nhà còn có nhiều ngăn và mỗi ngăn đều có cửa riêng và có lỗ châu mai phòng khi hành lang bị chiếm, gia chủ có thể rút lui vào các phòng trong để tiếp tục chiến đấu. Ở những nhà pháo đài phòng thủ kiểu này, tường nhà thường dày 30 đến 35 cm. Ðặc điểm của những ngôi nhà này rất ấm về mùa đông và mát về mùa hè.

Lý Thị Ninh
Vùng núi phía Bắc Việt Nam là khu vực có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Qua hàng trăm năm, cuộc sống của các dân tộc ít biến đổi, kiến trúc nhà ở của họ vẫn giữ được nét văn hóa sơ khai từ xưa đến nay.
Người Nùng thường ở nhà sàn hoặc nhà đất hoặc nhà nửa sàn nửa đất tùy theo điều kiện địa hình, trong đó nhà sàn là kiểu nhà ưa thích của họ. Nhà thường khá to, rộng, có 3 gian, vách thường bằng gỗ và lợp ngói âm dương.

Mái ngói âm dương
Nhà được chia làm hai phần bởi vách ngăn, trừ một lối đi ở gian giữa. Phần trong đặt bếp là nơi sinh hoặt chủ yếu của phụ nữ trong gia đình. Phần ngoài dành cho nam giới và đặt bàn thờ tổ tiên. Phía sau nhà có cầu thang phụ, ở đấy có máng nước dùng để tắm rửa. Phân chia này cũng đều áp dụng với khách nam và nữ.

Nhà của người Tày - Nùng có đặc trưng riêng không giống các cư dân khác trong cùng nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Bộ khung nhà Tày - Nùng cũng được hình thành trên cơ sở các kiểu Vì kèo. Có nhiều kiểu vì vèo khác nhau, nhưng chủ yếu đều bắt nguồn từ kiểu vì kèo - ba cột. Để mở rộng lòng nhà người ta thêm 1 hoặc 2 cột vào 2 bếp, vì kèo 3 cột trở thành vì kèo 5 hoặc 7 cột. Song không có vì kèo nào vượt quá con số 7.

Bộ khung nhà có 2 đặc trưng:
- Ô vì kèo, đứng trên lưng xà, kẹp giữa 2 cột có một trụ ngắn hình "quả bí"(hay quả dưa) đấu đầu vào thân kèo.

- Để liên kết các cột trong một vì kèo hay giữa các vì kèo với nhau, người ta không dùng các đoạn xà ngắn mà dùng một thanh gỗ dài xuyên qua thân các cột.

Mặt bằng sinh hoạt cảu nhà Tày - Nùng cơ bản là giống nhau , mặt sàn chia làm 2 phần: một là dành cho sinh hoạt của nữmột dành cho sinh hoạt của nam. Các phòng ngủ và nơi ngủ cảu mọi thành viên trog nhà đều giáp vách tiền và hậu.

Nói đến nhà Tày - Nùng có lẽ không nên bỏ qua một loại hình nhà khá đặc biệt đó là " nhà phòng thủ". Thường có sự kết hợp giữa nhà đất và nhà sàn ( đúng hơn là nhà tầng). Tường xây bằng gạch hoặc trình bằng đất rất dày ( 40 - 60cm)để chống đạn. Trên tường còn được đục nhiều lỗ châu mai. Có nhà còn có lô cốt chiến đấu. Loại nhà này chỉ có ở Lạng Sơn gần biên giới phía Bắc để phòng chống trộm cướp.

Nhiều đời nay, bà con dân tộc Tày, Nùng Lạng Sơn, sống dọc biên giới Việt-Trung, thường xây dựng nhà giữa lưng chừng núi, với những kiểu nhà mang tính chất phòng thủ. Người dân Xứ Lạng thường gọi là nhà pháo đài..

Nhà pháo đài vừa để ở, vừa có thể trở thành một lô cốt giúp nhân dân tự bảo vệ và đánh trả bọn cướp. Bởi do đặc thù của một tỉnh miền núi, biên giới, bà con các dân tộc Tày, Nùng sống rải rác ở các vùng núi cao, đồi núi, nhiều dân cư thưa thớt. Mỗi một thôn, bản chỉ vài nóc nhà, mỗi nhà cách nhau vài cây số. Chính vì thế để tự bảo vệ mình và bảo vệ biên cương, từ bao đời nay, bà con các dân tộc đã nghĩ ra những kiểu nhà độc đáo.

Nhà pháo đài gồm một nhà chính để ở, các bộ phận khác như bếp, chuồng trại nuôi gia súc, gia cầm được nối liền với nhà chính bằng một hành lang khép kín toàn bộ. Ðồng bào thường làm nhà theo kiểu trình tường bằng đất hoặc xây bằng gạch mộc, nhưng phổ biến nhất là nhà trình tường. Ðể chuẩn bị làm được nhà, đồng bào phải chuẩn bị trước vài năm. Quá trình làm nhà bắt đầu từ khâu san nền nhà, xây tường bằng cách đóng khuôn với hai tấm gỗ dài hơn hai mét, chiều cao 40 cm, rộng từ 30 đến 35 cm. Khi trình thì đổ đất vào khuôn sau đó từ ba đến bốn người dùng chày gỗ nện thật chặt, rồi dùng những thanh tre vào giữa khuôn để kết nối với các khuôn khác... Nhà dạng này thường làm hai mái, mái lợp bằng ngói âm dương. Thông thường nhà pháo đài được làm thành hai tầng: tầng trên và tầng dưới, chung quanh tường nhà có lỗ châu mai. Kết cấu nhà pháo đài gồm có nhiều gian, ngăn này thông ra ngăn kia, có cửa gỗ kiên cố chia cắt từng ngăn. Nhà pháo đài thường có gác bằng gỗ ván. Nhà ở chính bao giờ cũng có hiên ở đằng trước xây thành một hành lang phòng thủ có cửa sổ và lỗ châu mai. Phía chính cửa gia chủ còn làm một giàn đá tảng rất chắc. Nếu kẻ gian vào lập tức sẽ bị giàn đá đổ ập xuống. Ngoài ra trong nhà còn có nhiều ngăn và mỗi ngăn đều có cửa riêng và có lỗ châu mai phòng khi hành lang bị chiếm, gia chủ có thể rút lui vào các phòng trong để tiếp tục chiến đấu. Ở những nhà pháo đài phòng thủ kiểu này, tường nhà thường dày 30 đến 35 cm. Ðặc điểm của những ngôi nhà này rất ấm về mùa đông và mát về mùa hè.

Lý Thị Ninh

Tập quán dựng nhà của người Nùng (Minh Thắng)

Để phù hợp với điều kiện sinh hoạt và sản xuất, người Nùng sống quây quần thành từng bản. Nhà ở của người Nùng không những là nơi tụ họp các sinh hoạt văn hóa của gia đình mà đây còn là một hình ảnh thu nhỏ của văn hoá tộc người.

Kết cấu ngôi nhà
Ngôi nhà truyền thống tiêu biểu của người Nùng là ngôi nhà sàn lợp ngói máng. Đặc điểm dễ nhận thấy nhất trong ngôi nhà của người Nùng là nhà sàn 4 mái, ngoài 2 mái chính còn 2 mái đầu hồi bao giờ cũng thấp hơn mái chính. Kết cấu kỹ thuật ở nhà sàn 4 mái của đồng bào Nùng phức tạp hơn so với nhà sàn 2 mái ở một số địa phương khác. Điều này thể hiện rõ ở kết cấu vì chái, mái đầu hồi, các vì kèo, cột trong bộ sườn của nó (thường có kết cấu 4,6,7 hàng cột).
Ngôi nhà sàn của người Nùng cửa ra vào mở ra 2 đầu hồi. Cửa chính thường đặt cầu thang lên xuống, còn cửa phụ là nơi bếp hay ra sàn. Số lượng các bậc cầu thang bao giờ cũng chỉ có số bậc lẻ: 3,5,7,9... không làm bậc chẵn. Quan niệm cũ cho rằng, cầu thang bậc chẵn chỉ dùng ở thế giới của người chết. Câu thành ngữ “vùng dú củ pây”(lẻ ở, chẵn đi) là để diễn đạt quan niệm đó.
Chọn đất và hướng nhà (Dòm tỳ lơn)
Trong tâm thức của người Nùng, ngôi nhà dường như đã trở thành điều kiện cho sự thành bại của mỗi đời người. Chính vì thế, việc làm nhà mới đối với người Nùng đã trở thành một trong những sự kiện quan trọng của cuộc sống. Người Nùng quan niệm, nơi làm nhà phải cao, thoáng, vị trí của ngôi nhà và hướng nhà không bị che khuất bởi các ngọn núi. Hướng nhà được cư dân địa phương thời kỳ này lựa chọn chủ yếu là hướng Nam. Cũng giống như một số quan niệm hiện nay, khi chọn đất và hướng nhà người Nùng có một số kiêng kỵ: Họ kiêng làm nhà trên nền giếng cũ hay ngõ cụt, những mảnh đất ở nơi gần chùa, miếu, nơi thờ cúng... ở hướng nào thì nhà của người Nùng cũng đảm bảo những điều kiện thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt, đáp ứng nhu cầu của cuộc sống.
Chọn vật liệu (Dòm may day)
Khác với một số tộc người khác, người Nùng không có tập tục giúp đỡ nhau hay chọn ngày đi lấy vật liệu. Thường thì gia đình tự chuẩn bị vật liệu, bao giờ đủ thì mới làm nhà. Người ta lên rừng chọn những cây tre, cây gỗ vừa ý. Cây gỗ, cây tre ấy phải thẳng, đều gióng. Có như vậy mới đảm bảo ý nghĩa khoa học, sức bền của vật liệu và mỹ quan. Dây buộc thường làm bằng tre, nứa, mây nước, vật liệu làm mái thường được đồng bào chuẩn bị khi sắp sửa làm nhà vào lúc nông nhàn.
Chọn tuổi và ngày khởi công (Dòm văn hất lơn)
Khi chuẩn bị xong nguồn nguyên vật liệu, đồng bào tiến hành chọn năm làm nhà, chọn ngày khởi công. Người chủ biện một lễ nhỏ đến nhờ thầy Tào, thầy Mo xem tuổi mình có làm được nhà vào năm đó không, khởi công giờ nào, ngày nào; dựng nhà và vào nhà mới ngày nào là đẹp nhất. Các thầy thường dựa vào tuổi của chủ nhà và ngày sấm ra đầu tiên của năm đó. Thông thường những người ngoài 40 tuổi mới được làm nhà. Khi đã xem được tuổi và các ngày quan trọng thì gia chủ chuẩn bị làm lễ “khởi móng” (người Kinh gọi là động thổ). Sau khi khấn xong, người được tuổi làm nhà sẽ cầm cuốc, cuốc 45 nhát cuốc ở bốn góc từ Đông, Nam, Tây, Bắc và ở giữa để khởi móng.
Lễ phát mộc (Dòm văn long lơn)
Đây là nghi lễ cầu xin Thổ thần và Tổ tiên, Tổ sư Lỗ Ban phù hộ cho việc làm mộc được an toàn. Do đó, lễ phát mộc được tiến hành không chỉ có chủ nhà mà còn có sự tham gia của phường thợ. Để tiến hành Lễ phát mộc chủ nhà sắp mâm cỗ mặn đặt lên bàn thờ thắp hương vái lạy tổ tiên, thợ cả thắp nén hương xin phép vị tổ sư của mình là Lỗ Ban. Sau khi hành lễ, người thợ cả dùng dao đẽo mấy nhát vào cây gỗ theo giờ đã chọn phù hợp với nhà. Chỉ sau khi người thợ cả đặt dao xuống thì công việc làm mộc mới được bắt đầu việc quan trọng nhất của ngày hôm đó là phải cắt được “Cai may to long lơn” (cây sào, thước mực).
Cách thức dựng nhà
Việc dựng nhà đối với người Nùng không mấy khó khăn vì đồng bào có tập quán giúp đỡ nhau khi làm nhà. Khi dựng nhà người Nùng chú ý nhất thời điểm đặt cột chính và đặt nóc. Những sự kiện này người Nùng phải chọn ngày dựa theo lời của thầy cúng. Đến giờ quy định, người ta lắp các vì vào nhau.
Trước khi dựng nhà họ đào sẵn những chiếc hố để dựng cột. Đến giờ đẹp họ mang hòn đá tảng bỏ vào những chiếc hố đó. Riêng cột chính chủ nhà phải ôm cột nhà đặt lên tảng đá. Đối với nhà đất cột kê, họ làm lễ in tảng trước rồi mới dựng trước khi đặt tảng, người ta thường đặt xuống đó mảnh giấy đỏ, coi như là sự yểm bùa để bảo vệ ngôi nhà khỏi tà ma. Sau khi dựng xong, người ta bắt đầu lợp nhà, lợp hai mái phụ trước rồi đến hai mái chính.
Lễ vào nhà mới (Kin liên hoan khẩu lờn mâu)
Lễ vào nhà mới là một trong những nghi thức không thể thiếu được khi làm xong ngôi nhà. Trước hết, người ta tiến hành một số công việc như là làm ống hương đặt ở các nơi thờ cúng. Ngoài ra, còn phải ấn định nơi đặt bếp nấu nướng, kiếm củi sẵn để đó. Bàn thờ được đóng mới hoặc nếu dùng bàn thờ cũ phải lau chùi sạch sẽ, kể cả các đồ thờ. Thời điểm đặt bàn thờ phải được thầy cúng xem kỹ. Đây là một hình thức tín ngưỡng truyền thống, phù hợp với điều kiện kinh tế, điều kiện sinh hoạt và đời sống văn hoá tinh thần của đồng bào, nó có ý nghĩa tác dụng giáo dục sâu sắc.
Những tín ngưỡng khác liên quan đến ngôi nhà
Người Nùng cho rằng, ngôi nhà có chủ thì phải có nơi thờ cúng với mục đích phù hộ sức khoẻ cho gia đình, xua đuổi tà ma, đặc biệt là canh giữ cửa không cho các hồn vía xấu vào nhà. Do đó, ngoài bàn thờ Tổ tiên và ông Táo họ còn có ống hương ở trước cửa để thờ thần canh cửa.
Trong nhà có người mất thì đồ vật cũng phải đeo tang. Nếu người chết ở ngoài đường thì không được phép đưa vào trong nhà mà phải để ngoài ngõ. Họ quan niệm rằng, khi đưa những người chết đường vào nhà gia đình sẽ gặp điều xấu, bị ma tà hãm hại.
Các gia đình trong làng xóm có người sinh thì bà con không ai đến chơi vì sợ mang vía xấu đến nhà làm ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính tình của đứa bé. Nếu ai không biết đến nhà có người đang ở cữ thì sẽ được chủ nhà mời chén rượu để giải đen.
Nhà ở phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi dân tộc, đồng thời phản ánh chiều hướng phát triển kinh tế của họ gắn với ứng xử với môi trường thiên nhiên, đặc biệt là phương thức sinh hoạt./.

 Minh Thắng
Để phù hợp với điều kiện sinh hoạt và sản xuất, người Nùng sống quây quần thành từng bản. Nhà ở của người Nùng không những là nơi tụ họp các sinh hoạt văn hóa của gia đình mà đây còn là một hình ảnh thu nhỏ của văn hoá tộc người.

Kết cấu ngôi nhà
Ngôi nhà truyền thống tiêu biểu của người Nùng là ngôi nhà sàn lợp ngói máng. Đặc điểm dễ nhận thấy nhất trong ngôi nhà của người Nùng là nhà sàn 4 mái, ngoài 2 mái chính còn 2 mái đầu hồi bao giờ cũng thấp hơn mái chính. Kết cấu kỹ thuật ở nhà sàn 4 mái của đồng bào Nùng phức tạp hơn so với nhà sàn 2 mái ở một số địa phương khác. Điều này thể hiện rõ ở kết cấu vì chái, mái đầu hồi, các vì kèo, cột trong bộ sườn của nó (thường có kết cấu 4,6,7 hàng cột).
Ngôi nhà sàn của người Nùng cửa ra vào mở ra 2 đầu hồi. Cửa chính thường đặt cầu thang lên xuống, còn cửa phụ là nơi bếp hay ra sàn. Số lượng các bậc cầu thang bao giờ cũng chỉ có số bậc lẻ: 3,5,7,9... không làm bậc chẵn. Quan niệm cũ cho rằng, cầu thang bậc chẵn chỉ dùng ở thế giới của người chết. Câu thành ngữ “vùng dú củ pây”(lẻ ở, chẵn đi) là để diễn đạt quan niệm đó.
Chọn đất và hướng nhà (Dòm tỳ lơn)
Trong tâm thức của người Nùng, ngôi nhà dường như đã trở thành điều kiện cho sự thành bại của mỗi đời người. Chính vì thế, việc làm nhà mới đối với người Nùng đã trở thành một trong những sự kiện quan trọng của cuộc sống. Người Nùng quan niệm, nơi làm nhà phải cao, thoáng, vị trí của ngôi nhà và hướng nhà không bị che khuất bởi các ngọn núi. Hướng nhà được cư dân địa phương thời kỳ này lựa chọn chủ yếu là hướng Nam. Cũng giống như một số quan niệm hiện nay, khi chọn đất và hướng nhà người Nùng có một số kiêng kỵ: Họ kiêng làm nhà trên nền giếng cũ hay ngõ cụt, những mảnh đất ở nơi gần chùa, miếu, nơi thờ cúng... ở hướng nào thì nhà của người Nùng cũng đảm bảo những điều kiện thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt, đáp ứng nhu cầu của cuộc sống.
Chọn vật liệu (Dòm may day)
Khác với một số tộc người khác, người Nùng không có tập tục giúp đỡ nhau hay chọn ngày đi lấy vật liệu. Thường thì gia đình tự chuẩn bị vật liệu, bao giờ đủ thì mới làm nhà. Người ta lên rừng chọn những cây tre, cây gỗ vừa ý. Cây gỗ, cây tre ấy phải thẳng, đều gióng. Có như vậy mới đảm bảo ý nghĩa khoa học, sức bền của vật liệu và mỹ quan. Dây buộc thường làm bằng tre, nứa, mây nước, vật liệu làm mái thường được đồng bào chuẩn bị khi sắp sửa làm nhà vào lúc nông nhàn.
Chọn tuổi và ngày khởi công (Dòm văn hất lơn)
Khi chuẩn bị xong nguồn nguyên vật liệu, đồng bào tiến hành chọn năm làm nhà, chọn ngày khởi công. Người chủ biện một lễ nhỏ đến nhờ thầy Tào, thầy Mo xem tuổi mình có làm được nhà vào năm đó không, khởi công giờ nào, ngày nào; dựng nhà và vào nhà mới ngày nào là đẹp nhất. Các thầy thường dựa vào tuổi của chủ nhà và ngày sấm ra đầu tiên của năm đó. Thông thường những người ngoài 40 tuổi mới được làm nhà. Khi đã xem được tuổi và các ngày quan trọng thì gia chủ chuẩn bị làm lễ “khởi móng” (người Kinh gọi là động thổ). Sau khi khấn xong, người được tuổi làm nhà sẽ cầm cuốc, cuốc 45 nhát cuốc ở bốn góc từ Đông, Nam, Tây, Bắc và ở giữa để khởi móng.
Lễ phát mộc (Dòm văn long lơn)
Đây là nghi lễ cầu xin Thổ thần và Tổ tiên, Tổ sư Lỗ Ban phù hộ cho việc làm mộc được an toàn. Do đó, lễ phát mộc được tiến hành không chỉ có chủ nhà mà còn có sự tham gia của phường thợ. Để tiến hành Lễ phát mộc chủ nhà sắp mâm cỗ mặn đặt lên bàn thờ thắp hương vái lạy tổ tiên, thợ cả thắp nén hương xin phép vị tổ sư của mình là Lỗ Ban. Sau khi hành lễ, người thợ cả dùng dao đẽo mấy nhát vào cây gỗ theo giờ đã chọn phù hợp với nhà. Chỉ sau khi người thợ cả đặt dao xuống thì công việc làm mộc mới được bắt đầu việc quan trọng nhất của ngày hôm đó là phải cắt được “Cai may to long lơn” (cây sào, thước mực).
Cách thức dựng nhà
Việc dựng nhà đối với người Nùng không mấy khó khăn vì đồng bào có tập quán giúp đỡ nhau khi làm nhà. Khi dựng nhà người Nùng chú ý nhất thời điểm đặt cột chính và đặt nóc. Những sự kiện này người Nùng phải chọn ngày dựa theo lời của thầy cúng. Đến giờ quy định, người ta lắp các vì vào nhau.
Trước khi dựng nhà họ đào sẵn những chiếc hố để dựng cột. Đến giờ đẹp họ mang hòn đá tảng bỏ vào những chiếc hố đó. Riêng cột chính chủ nhà phải ôm cột nhà đặt lên tảng đá. Đối với nhà đất cột kê, họ làm lễ in tảng trước rồi mới dựng trước khi đặt tảng, người ta thường đặt xuống đó mảnh giấy đỏ, coi như là sự yểm bùa để bảo vệ ngôi nhà khỏi tà ma. Sau khi dựng xong, người ta bắt đầu lợp nhà, lợp hai mái phụ trước rồi đến hai mái chính.
Lễ vào nhà mới (Kin liên hoan khẩu lờn mâu)
Lễ vào nhà mới là một trong những nghi thức không thể thiếu được khi làm xong ngôi nhà. Trước hết, người ta tiến hành một số công việc như là làm ống hương đặt ở các nơi thờ cúng. Ngoài ra, còn phải ấn định nơi đặt bếp nấu nướng, kiếm củi sẵn để đó. Bàn thờ được đóng mới hoặc nếu dùng bàn thờ cũ phải lau chùi sạch sẽ, kể cả các đồ thờ. Thời điểm đặt bàn thờ phải được thầy cúng xem kỹ. Đây là một hình thức tín ngưỡng truyền thống, phù hợp với điều kiện kinh tế, điều kiện sinh hoạt và đời sống văn hoá tinh thần của đồng bào, nó có ý nghĩa tác dụng giáo dục sâu sắc.
Những tín ngưỡng khác liên quan đến ngôi nhà
Người Nùng cho rằng, ngôi nhà có chủ thì phải có nơi thờ cúng với mục đích phù hộ sức khoẻ cho gia đình, xua đuổi tà ma, đặc biệt là canh giữ cửa không cho các hồn vía xấu vào nhà. Do đó, ngoài bàn thờ Tổ tiên và ông Táo họ còn có ống hương ở trước cửa để thờ thần canh cửa.
Trong nhà có người mất thì đồ vật cũng phải đeo tang. Nếu người chết ở ngoài đường thì không được phép đưa vào trong nhà mà phải để ngoài ngõ. Họ quan niệm rằng, khi đưa những người chết đường vào nhà gia đình sẽ gặp điều xấu, bị ma tà hãm hại.
Các gia đình trong làng xóm có người sinh thì bà con không ai đến chơi vì sợ mang vía xấu đến nhà làm ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính tình của đứa bé. Nếu ai không biết đến nhà có người đang ở cữ thì sẽ được chủ nhà mời chén rượu để giải đen.
Nhà ở phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi dân tộc, đồng thời phản ánh chiều hướng phát triển kinh tế của họ gắn với ứng xử với môi trường thiên nhiên, đặc biệt là phương thức sinh hoạt./.

 Minh Thắng