Cũng như các dân tộc khác , dân tộc Nùng ở Bắc Kạn cũng
có những nghi lễ về việc hiếu rất riêng.
Người Nùng quan niệm khi người thân chút hơi thở cuối
cùng là lúc chia tay với trần gian để về cõi âm, do vậy con cháu sẽ mời thầy
cúng về để làm các thủ tục tiễn đưa linh hồn của người đã chết về nơi an nghỉ
cuối cùng được suôn sẻ.
Để báo hiếu cho người đã chết con cháu phải làm đầy đủ
nghi lễ không được để sót bất cứ bước nào.
Khi nhà có người chết con cháu chưa được khóc , chỉ khi
nào thầy tào đến khâm niệm con cháu mới được khóc. Con cháu phải đun nước bằng
các loại lá thơm để tắm rửa thay quần áo cho người
chết.
Nếu người chết là gái thì mặc 9 áo, nếu là nam thì mặc 7
áo. Người con trai trưởng lấy đồng tiền xu đặt vào lưỡi hoặc vào tay của người
đã chết coi đó là tiền khi qua cầu. Sau khi hoàn tất các thủ tục thầy tào mới
tiến hành khâm
niệm.
Có nơi con cháu khâm niệm người quá cố bằng tấm vải
trắng, nhưng cũng có nơi khâm niệm bằng vải màu vàng. Sau khi khâm niệm xong
người chết sẽ được đặt ra gian giữa trong nhà, đầu quay về phía bàn thờ, màn chỉ
mắc 3 góc, kiểu mắc màn này để phân biệt giữa người chết và người
sống.
Cũng như dân tộc Kinh, giờ nhập quan được người Nùng rất
coi trọng, vì người Nùng quan niệm giờ nhập quan không chỉ liên quan đến người
chết mà còn liên quan đến cả người
sống.
Vì thế người nào không may chết phải giờ xấu thì có khi
vài ngày mới chọn được giờ nhập quan. Trước khi đưa xác vào quan tài thì áo quan
đã được lót bằng gạo rang hoặc chè khô để hút chống mùi hôi
thối.
Khi đưa xác vào áo quan thì thầy tào đọc một tờ giấy gọi
là tờ “phan”, tờ giấy đó được ghi rõ thân thế của người đã chết, trước khi nắp
quan tài được đóng lại tờ giấy đó được bỏ vào trong coi như biên bản bàn giao
của người sống và người chết.
Nghi lễ dâng đèn hoa cho người chết được gọi là Lễ tâng
khay lò, có lễ này người chết mới nhìn rõ đường về thế giới bên kia. Trước khi
mặc áo tang con cháu phải cầm áo tang đến bên linh cữu của người chết để
lạy.
Sau khi đã nhập quan, con cháu phải kiêng không được ngủ
trên giường, không cắt tóc, không ăn thịt mỡ... trong 40 ngày đầu để tỏ lòng báo
hiếu với người đã chết. Đó là trước kia , còn ngày nay hầu như những thủ tục cổ
hủ này đã được xóa bỏ, tình trạng người chết để lâu ngày trong nhà hầu hết đã
không còn.
Lễ dâng cơm được thực hiện ngày 2 lần vào buổi sáng và
buổi chiều. Người Nùng quan niệm sống thế nào thì chết như vậy, ngày dâng cơm
cho người chết vào 2 bữa là thể hiện lòng thành kính.
Lễ cây tiền, cây bạc được mỗi người con rể làm bằng giấy xanh, đỏ, vàng, trắng cao thấp tùy tâm để bố mẹ mang về thế giới bên kia.
Lễ cây tiền, cây bạc được mỗi người con rể làm bằng giấy xanh, đỏ, vàng, trắng cao thấp tùy tâm để bố mẹ mang về thế giới bên kia.
Khi đưa ma cây tiền, cây bạc mang theo để đốt tại mộ. Lễ
qua lửa được thực hiện trước khi đưa lĩnh cữu đi đồ đạc của người chết được đốt
hết hoặc hơ lửa để không còn hồn vía của người qúa
cố.
Khi đưa quan tài khỏi ra cửa thầy tào làm phép để hồn
không còn luẩn quẩn trong nhà quấy phá người sống. Lễ hạ huyệt được người Nùng
chọn đất rất kỹ, chọn nơi đất phát và chọn giờ tốt mới hạ huyệt
.
Sau khi chôn cất được 3 hôm, con cháu sẽ mời thầy tào đến
nơi chôn cất để tiến hành nghi lễ mở cửa mộ để báo cho sơn thần biết và đón nhận
người chết về cõi
âm.
Người Nùng thường để tang bố 2 năm, tang mẹ 3 năm, trong
thời gian này không đựơc tổ chức cưới hỏi, làm nhà.
Nghi lễ ma chay của người Nùng ngày nay đã tiến bộ hơn
trước đây rất nhiều, tuy nhiên ở một số nơi vùng sâu, vùng xa vẫn còn nặng nề
cần được dần dần loại bỏ.
Thụy Lân
Cũng như các dân tộc khác , dân tộc Nùng ở Bắc Kạn cũng
có những nghi lễ về việc hiếu rất riêng.
Người Nùng quan niệm khi người thân chút hơi thở cuối
cùng là lúc chia tay với trần gian để về cõi âm, do vậy con cháu sẽ mời thầy
cúng về để làm các thủ tục tiễn đưa linh hồn của người đã chết về nơi an nghỉ
cuối cùng được suôn sẻ.
Để báo hiếu cho người đã chết con cháu phải làm đầy đủ
nghi lễ không được để sót bất cứ bước nào.
Khi nhà có người chết con cháu chưa được khóc , chỉ khi
nào thầy tào đến khâm niệm con cháu mới được khóc. Con cháu phải đun nước bằng
các loại lá thơm để tắm rửa thay quần áo cho người
chết.
Nếu người chết là gái thì mặc 9 áo, nếu là nam thì mặc 7
áo. Người con trai trưởng lấy đồng tiền xu đặt vào lưỡi hoặc vào tay của người
đã chết coi đó là tiền khi qua cầu. Sau khi hoàn tất các thủ tục thầy tào mới
tiến hành khâm
niệm.
Có nơi con cháu khâm niệm người quá cố bằng tấm vải
trắng, nhưng cũng có nơi khâm niệm bằng vải màu vàng. Sau khi khâm niệm xong
người chết sẽ được đặt ra gian giữa trong nhà, đầu quay về phía bàn thờ, màn chỉ
mắc 3 góc, kiểu mắc màn này để phân biệt giữa người chết và người
sống.
Cũng như dân tộc Kinh, giờ nhập quan được người Nùng rất
coi trọng, vì người Nùng quan niệm giờ nhập quan không chỉ liên quan đến người
chết mà còn liên quan đến cả người
sống.
Vì thế người nào không may chết phải giờ xấu thì có khi
vài ngày mới chọn được giờ nhập quan. Trước khi đưa xác vào quan tài thì áo quan
đã được lót bằng gạo rang hoặc chè khô để hút chống mùi hôi
thối.
Khi đưa xác vào áo quan thì thầy tào đọc một tờ giấy gọi
là tờ “phan”, tờ giấy đó được ghi rõ thân thế của người đã chết, trước khi nắp
quan tài được đóng lại tờ giấy đó được bỏ vào trong coi như biên bản bàn giao
của người sống và người chết.
Nghi lễ dâng đèn hoa cho người chết được gọi là Lễ tâng
khay lò, có lễ này người chết mới nhìn rõ đường về thế giới bên kia. Trước khi
mặc áo tang con cháu phải cầm áo tang đến bên linh cữu của người chết để
lạy.
Sau khi đã nhập quan, con cháu phải kiêng không được ngủ
trên giường, không cắt tóc, không ăn thịt mỡ... trong 40 ngày đầu để tỏ lòng báo
hiếu với người đã chết. Đó là trước kia , còn ngày nay hầu như những thủ tục cổ
hủ này đã được xóa bỏ, tình trạng người chết để lâu ngày trong nhà hầu hết đã
không còn.
Lễ dâng cơm được thực hiện ngày 2 lần vào buổi sáng và
buổi chiều. Người Nùng quan niệm sống thế nào thì chết như vậy, ngày dâng cơm
cho người chết vào 2 bữa là thể hiện lòng thành kính.
Lễ cây tiền, cây bạc được mỗi người con rể làm bằng giấy xanh, đỏ, vàng, trắng cao thấp tùy tâm để bố mẹ mang về thế giới bên kia.
Lễ cây tiền, cây bạc được mỗi người con rể làm bằng giấy xanh, đỏ, vàng, trắng cao thấp tùy tâm để bố mẹ mang về thế giới bên kia.
Khi đưa ma cây tiền, cây bạc mang theo để đốt tại mộ. Lễ
qua lửa được thực hiện trước khi đưa lĩnh cữu đi đồ đạc của người chết được đốt
hết hoặc hơ lửa để không còn hồn vía của người qúa
cố.
Khi đưa quan tài khỏi ra cửa thầy tào làm phép để hồn
không còn luẩn quẩn trong nhà quấy phá người sống. Lễ hạ huyệt được người Nùng
chọn đất rất kỹ, chọn nơi đất phát và chọn giờ tốt mới hạ huyệt
.
Sau khi chôn cất được 3 hôm, con cháu sẽ mời thầy tào đến
nơi chôn cất để tiến hành nghi lễ mở cửa mộ để báo cho sơn thần biết và đón nhận
người chết về cõi
âm.
Người Nùng thường để tang bố 2 năm, tang mẹ 3 năm, trong
thời gian này không đựơc tổ chức cưới hỏi, làm nhà.
Nghi lễ ma chay của người Nùng ngày nay đã tiến bộ hơn
trước đây rất nhiều, tuy nhiên ở một số nơi vùng sâu, vùng xa vẫn còn nặng nề
cần được dần dần loại bỏ.
Thụy Lân