
Thầy 
đang làm lễ cúng rừng
Người vùng cao có nhiều lễ hội đặc 
sắc, trong đó có lễ hội cúng rừng của đồng bào Nùng, phong tục đã được lưu 
truyền và phát triển từ nhiều đời nay.
Tùy thuộc vào mỗi địa phương nên 
ngày cúng rừng có khác nhau, tuy nhiên nội dung lễ hội cúng rừng xoay quanh việc 
cầu mong mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, nhà nhà ấm no, hạnh phúc và cùng 
nhau bảo vệ rừng.
Với quan niệm rừng cũng có thần 
rừng (tiếng Nùng gọi là ‘‘Đông Chứ’’) cai quản, nên năm nào cũng vậy, cứ đến 
tháng Giêng, dân tộc Nùng khắp các thôn, bản huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai lại 
cùng nhau tổ chức lễ cúng rừng, dâng lên thần rừng những lễ vật cùng lời cầu 
mong một năm mới may 
mắn.
Lễ cúng rừng được tổ chức ngay 
trong rừng cấm của từng thôn, bản. Tùy theo điều kiện của địa phương mà lễ vật 
có sự khác nhau. Có thôn, năm nào cũng mổ lợn, có thôn cứ 3 năm thì mổ trâu một 
lần. Mâm lễ vật thường có gà, xôi, thịt, 
rượu.
Đồ dâng cúng có mâm đặc biệt "Mâm 
đất nước", tiếng Nùng là "Pặt chiêng" cúng những người hy sinh bảo vệ đất nước 
và mâm cúng người bảo vệ làng bản. Tại lễ cúng rừng, mâm cỗ cúng được bày ngay 
dưới gốc cây cổ thụ, được coi là "Cây bố và cây mẹ", người hành lễ đọc bài cầu 
chúc cho mưa thuận, gió hòa, rừng cây luôn xanh tốt, mùa màng sinh 
sôi…
Lễ cúng rừng của người Nùng ở Hà 
Giang được tổ chức vào ngày 30 tháng Giêng và ngày mùng 2 tháng 7 Âm lịch hằng 
năm. Đồng bào lập đàn cúng dưới gốc cây cổ thụ nhất trong khu rừng cấm. Lễ vật 
cúng là lợn, gà, sau khi mổ xong sắp nguyên cả con (chưa qua chế biến) cùng với 
tiết và nội tạng bày lên mâm cúng. Trên mâm cúng có 12 chiếc chén, 12 đôi đũa và 
12 chiếc 
bát.
Người Nùng quan niệm, con số 12 
tượng trưng cho 12 tháng trong năm. Để chuẩn bị cho lễ cúng, người Nùng còn phải 
chuẩn bị các lễ vật: 1 con lợn, 1 con gà trống, 1 nồi cơm cúng, 1 chai rượu. Các 
hộ gia đình khi đi dự lễ mang theo 1 bó hương, 1 thếp giấy bản, kèm theo 1 gói 
cơm nắm, 1 chai rượu, 1 chén, 1 bát và 1 đôi đũa để ăn cơm khi buổi lễ kết 
thúc.
Sau khi chuẩn bị xong đồ lễ cúng, 
thầy cúng lấy những thệp giấy bạc do bà con dân bản mang đến gấp đủ 12 quân giấy 
bạc, tượng trưng cho 12 tháng trong năm. Các quân giấy bạc này trông như con 
thuyền, dùng để thay cho những đồng tiền trước đây, gọi là ngân 
khố.

Sau lễ cúng người dân ăn bữa cơm 
cộng cảm tại khu rừng 
cúng
Xưa kia, trong mỗi dịp tổ chức lễ 
cúng rừng thì mỗi gia đình chỉ có 1 người nam giới đại diện cho gia đình đến 
tham dự. Tuy nhiên hiện nay, người Nùng không còn quan niệm phân biệt nam hay nữ 
khi đến dự lễ cúng rừng mà cả nam và nữ đều được mời đến tham 
dự.
Chủ rừng Lềnh Văn Sáng, xã Ban Mế, 
huyện Si Ma Cai cho biết, người chịu trách nhiệm làm lễ chính là thầy mo, tuổi 
ngoài 40, am hiểu phong tục, được dân làng kính trọng, tín nhiệm. Trong lễ cúng, 
người Nùng thắp hương để mời thần rừng về chứng kiến cho tấm lòng thành kính của 
dân bản. Bài cúng thể hiện lòng biết ơn thần linh đã che chở cho dân làng, hàm ý 
mong thần rừng phù hộ cho một năm mới mưa thuận gió hòa, để mọi người có sức 
khỏe dồi dào, cửa nhà êm ấm, làm ăn phát 
đạt…
Người Nùng cho rằng, rừng cấm là 
chốn linh thiêng, không được ai xâm phạm đến, không được ai vào chặt cây, làm 
những điều ô uế. Nếu ai vi phạm vào lệnh cấm trên, người đó cả năm sẽ gặp những 
điều không may mắn. Hành động vi phạm nếu bị phát hiện, thì người vi phạm sẽ 
phải làm lễ, mời thầy mo đến cúng để tạ tội với thần linh. Quan niệm này thường 
được người dân trong thôn, bản rất tôn trọng, nên ít khi có người vi 
phạm.
    Ngoài ý nghĩa tín ngưỡng thông 
thường mang đậm nét văn hóa của cư dân nông nghiệp, tục cúng rừng của người Nùng 
còn mang ý nghĩa nhân văn hết sức sâu sắc, đó là ý nghĩa giáo dục nhân dân tình 
yêu thiên nhiên, ý thức bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sống xung quanh con 
người... Với ý nghĩa đó, tục cúng rừng của người Nùng là một trong những nét văn 
hóa truyền thống tốt đẹp cần được bảo tồn và phát huy giá 
trị.
 Trần 
Quý

Thầy 
đang làm lễ cúng rừng
Người vùng cao có nhiều lễ hội đặc 
sắc, trong đó có lễ hội cúng rừng của đồng bào Nùng, phong tục đã được lưu 
truyền và phát triển từ nhiều đời nay.
Tùy thuộc vào mỗi địa phương nên 
ngày cúng rừng có khác nhau, tuy nhiên nội dung lễ hội cúng rừng xoay quanh việc 
cầu mong mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, nhà nhà ấm no, hạnh phúc và cùng 
nhau bảo vệ rừng.
Với quan niệm rừng cũng có thần 
rừng (tiếng Nùng gọi là ‘‘Đông Chứ’’) cai quản, nên năm nào cũng vậy, cứ đến 
tháng Giêng, dân tộc Nùng khắp các thôn, bản huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai lại 
cùng nhau tổ chức lễ cúng rừng, dâng lên thần rừng những lễ vật cùng lời cầu 
mong một năm mới may 
mắn.
Lễ cúng rừng được tổ chức ngay 
trong rừng cấm của từng thôn, bản. Tùy theo điều kiện của địa phương mà lễ vật 
có sự khác nhau. Có thôn, năm nào cũng mổ lợn, có thôn cứ 3 năm thì mổ trâu một 
lần. Mâm lễ vật thường có gà, xôi, thịt, 
rượu.
Đồ dâng cúng có mâm đặc biệt "Mâm 
đất nước", tiếng Nùng là "Pặt chiêng" cúng những người hy sinh bảo vệ đất nước 
và mâm cúng người bảo vệ làng bản. Tại lễ cúng rừng, mâm cỗ cúng được bày ngay 
dưới gốc cây cổ thụ, được coi là "Cây bố và cây mẹ", người hành lễ đọc bài cầu 
chúc cho mưa thuận, gió hòa, rừng cây luôn xanh tốt, mùa màng sinh 
sôi…
Lễ cúng rừng của người Nùng ở Hà 
Giang được tổ chức vào ngày 30 tháng Giêng và ngày mùng 2 tháng 7 Âm lịch hằng 
năm. Đồng bào lập đàn cúng dưới gốc cây cổ thụ nhất trong khu rừng cấm. Lễ vật 
cúng là lợn, gà, sau khi mổ xong sắp nguyên cả con (chưa qua chế biến) cùng với 
tiết và nội tạng bày lên mâm cúng. Trên mâm cúng có 12 chiếc chén, 12 đôi đũa và 
12 chiếc 
bát.
Người Nùng quan niệm, con số 12 
tượng trưng cho 12 tháng trong năm. Để chuẩn bị cho lễ cúng, người Nùng còn phải 
chuẩn bị các lễ vật: 1 con lợn, 1 con gà trống, 1 nồi cơm cúng, 1 chai rượu. Các 
hộ gia đình khi đi dự lễ mang theo 1 bó hương, 1 thếp giấy bản, kèm theo 1 gói 
cơm nắm, 1 chai rượu, 1 chén, 1 bát và 1 đôi đũa để ăn cơm khi buổi lễ kết 
thúc.
Sau khi chuẩn bị xong đồ lễ cúng, 
thầy cúng lấy những thệp giấy bạc do bà con dân bản mang đến gấp đủ 12 quân giấy 
bạc, tượng trưng cho 12 tháng trong năm. Các quân giấy bạc này trông như con 
thuyền, dùng để thay cho những đồng tiền trước đây, gọi là ngân 
khố.

Sau lễ cúng người dân ăn bữa cơm 
cộng cảm tại khu rừng 
cúng
Xưa kia, trong mỗi dịp tổ chức lễ 
cúng rừng thì mỗi gia đình chỉ có 1 người nam giới đại diện cho gia đình đến 
tham dự. Tuy nhiên hiện nay, người Nùng không còn quan niệm phân biệt nam hay nữ 
khi đến dự lễ cúng rừng mà cả nam và nữ đều được mời đến tham 
dự.
Chủ rừng Lềnh Văn Sáng, xã Ban Mế, 
huyện Si Ma Cai cho biết, người chịu trách nhiệm làm lễ chính là thầy mo, tuổi 
ngoài 40, am hiểu phong tục, được dân làng kính trọng, tín nhiệm. Trong lễ cúng, 
người Nùng thắp hương để mời thần rừng về chứng kiến cho tấm lòng thành kính của 
dân bản. Bài cúng thể hiện lòng biết ơn thần linh đã che chở cho dân làng, hàm ý 
mong thần rừng phù hộ cho một năm mới mưa thuận gió hòa, để mọi người có sức 
khỏe dồi dào, cửa nhà êm ấm, làm ăn phát 
đạt…
Người Nùng cho rằng, rừng cấm là 
chốn linh thiêng, không được ai xâm phạm đến, không được ai vào chặt cây, làm 
những điều ô uế. Nếu ai vi phạm vào lệnh cấm trên, người đó cả năm sẽ gặp những 
điều không may mắn. Hành động vi phạm nếu bị phát hiện, thì người vi phạm sẽ 
phải làm lễ, mời thầy mo đến cúng để tạ tội với thần linh. Quan niệm này thường 
được người dân trong thôn, bản rất tôn trọng, nên ít khi có người vi 
phạm.
    Ngoài ý nghĩa tín ngưỡng thông 
thường mang đậm nét văn hóa của cư dân nông nghiệp, tục cúng rừng của người Nùng 
còn mang ý nghĩa nhân văn hết sức sâu sắc, đó là ý nghĩa giáo dục nhân dân tình 
yêu thiên nhiên, ý thức bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sống xung quanh con 
người... Với ý nghĩa đó, tục cúng rừng của người Nùng là một trong những nét văn 
hóa truyền thống tốt đẹp cần được bảo tồn và phát huy giá 
trị.
 Trần 
Quý





