Dân tộc Nùng ở huyện Xín mần cư trú trong
những làng bản lẻ loi và heo hút giữa khung cảnh thiên nhiên bao la, hùng vĩ. Họ
coi con người là vốn quí, coi trọng hôn nhân và luôn mong muốn nhà có đông con
cháu sum vầy, cho nên việc tiến hành lễ cưới được chuẩn bị công phu và người
Nùng U coi đó là cơ hội đầu tiên làm nên gia đình, làm nên xã
hội.
Người Nùng coi việc cưới xin là thiêng
liêng nhất của đời người, là ngày hội của dòng họ, hàng xóm láng
giềng.
Gom tiền, nuôi lợn chuẩn bị
cưới…
Người Nùng coi việc cưới xin là thiêng
liêng nhất của đời người, là ngày hội của dòng họ, hàng xóm láng giềng. Lễ cưới
được cộng đồng sáng tạo nên nhằm trình bày những khát vọng thẩm mĩ của con
người.
Khi con cái trong nhà bắt đầu lớn, người
Nùng U tính ngay đến việc dựng vợ gả chồng cho con để sớm có con cháu, đông vui
nhà cửa. Người cha hết sức quan tâm, chuẩn bị tổ chức lễ cưới chu đáo cho các
con.
Theo tập quán gia đình nhà gái sẽ mua sắm
cho con gái một ít đồ dùng cần thiết gọi là của hồi môn. Ngày nhà trai đón dâu,
cô gái sẽ mang của hồi môn về nhà chồng như: chăn màn, áo váy, 2 cái hòm đựng đồ
dùng hàng ngày, 2 cái chiếu cói, 2 khăn rửa mặt và 2 bộ quần áo cho bố mẹ chồng.
Việc mua sắm này dẫn đến thách cưới của bên nhà gái to hay nhỏ. Lễ cưới càng
linh đình thì càng đông vui, người ta coi đó là bước đầu xây dựng hạnh phúc lớn
và cuộc tình duyên bền vững lâu
dài.
Còn gia đình có con trai lớn thông thường
là 14 đến 15 tuổi, cha mẹ phải lo tìm vợ cho con. Đám cưới của dân tộc Nùng tốn
kém rất nhiều tiền của cho nên cha mẹ phải lo sớm những việc cần thiết như tiền
bạc, quần áo, đồ trang sức..., nếu thiếu tiền nhà trai phải vay mượn anh em họ
hàng. Số tiền giúp này được coi như tiền gửi nhau, sau này sẽ được hoàn trả đầy
đủ khi gia đình người giúp mình cũng lo việc cưới. Người Nùng coi việc giúp nhau
là việc hệ trọng và họ không tính đến tiền lãi, một khi đã hứa giúp, người ta
giữ đúng lời hứa, không ai dám để lỡ hẹn. Lễ cưới con bạn cũng coi như lễ cưới
con mình.
Trong đám cưới, nhà trai phải có lợn dẫn lễ
sang nhà gái. Mỗi đám cưới phải có từ 80 đến 100kg lợn móc hàm, nhà trai phải tự
nuôi từ 3 đến 5
năm.
Gia đình có con trai từ 12 tuổi, cha mẹ đã
đặt vấn đề ướm tìm con dâu tương
lai.
Ướm nàng dâu tương
lai
Gia đình có con trai từ 12 tuổi, cha mẹ đã
đặt vấn đề ướm tìm con dâu tương lai, qua những người thân bên nội, ngoại hay
các vị thân thích, bạn bè, cha mẹ các chàng trai sẽ tiến hành thẩm tra, hỏi han,
thăm dò về đạo đức, tính nết, tác phong, cách cư xử, sự quan hệ giao du bạn bè,
lai lịch gia đình của cô con gái xem dòng họ có môn đặng hộ đối, có “sạch sẽ”
hay không (“sạch sẽ” ở đây là không có “ma gà”). Nếu nghi có ma gà, họ lập tức
bỏ qua ngay, vì họ cho rằng ma gà sẽ di truyền từ đời này sang đời khác làm con
trai khó lấy vợ, con gái khó lấy
chồng.
Bắt đầu các nghi
lễ…
Khi tìm được những cô gái ưng ý cho con
trai, bố mẹ đầu tiên sẽ trực tiếp trao đổi với cha mẹ nhà gái. Ở buổi gặp gỡ này
chưa có lễ vật nào. Khi được nhà gái ưng thuận, nhà trai xin nhà gái cho biết
ngày, giờ, tháng năm sinh của cô gái (tính theo tuổi Âm lịch) để đem về nhà nhờ
ông thầy tướng số xem giúp hai đứa trẻ có hợp hay sung, cuộc sống tương lai của
đôi trẻ sau này có hạnh phúc
không.
Khi thấy hợp tuổi nhà trai sẽ làm lễ dạm.
Đến lúc này, cha mẹ con trai và cha mẹ con gái mới cho các con biết tin và hỏi ý
kiến các con có nhất trí lấy người đó làm vợ, làm chồng hay không. Nếu đôi trẻ
ưng thuận, nhà trai tìm bà mai mối. Bà mai mối là người đã có gia đình và có con
trai, con gái, thường nói là (có nếp có tẻ) là người nhanh nhẹn hoạt bát, hiểu
biết khá rõ các nghi thức mai mối thay mặt nhà trai đến nhà gái bàn luận việc
hôn thú của đôi trẻ. Nếu nhà gái cũng nhất trí, lần thứ hai sẽ mang một chai
rượu và một gói kẹo, buộc vào cổ chai rượu một sợi dây đỏ hoặc vải đỏ đặt lên
bàn thờ, sau bảy ngày, nếu nhà gái không trả lại thì coi như bố mẹ nhà gái đã
nhất trí việc dẫn lễ ăn
hỏi.
Sau lễ dạm hỏi thì đến lễ ăn hỏi được tổ
chức trang trọng hơn, sau lễ dạm hỏi khoảng độ ba tháng. Nhà trai phải báo trước
một tháng trở lên để nhà gái có thời gian mời người thân thích bên nội, ngoại,
bạn bè xa gần dến
dự.
Trong buổi lễ ăn hỏi, hai bên bàn bạc nhiều
vấn đề quan trọng liên quan đến đám cưới như: của hồi môn, tiền bạc, chăn màn,
ngày giờ đón dâu... Trên cơ sở đó nhà trai chọn cử ra một người con trai hoạt
bát, tháo vát biết về nhiều thủ tục cưới xin để thay mặt nhà trai bàn bạc và
quyết định mọi việc xung quanh về lễ cưới ở bên nhà
gái.
Các lễ vật cho lễ ăn hỏi gồm: một con lợn
hơi 60 kg, 12 chiếc bánh dày, 15 lít rượu, 1 vòng bạc. Nhà gái mời khách đến dự
lễ ăn hỏi và cử ra một đại diện phát ngôn chính trong lễ ăn hỏi. Hai bên trao
đổi bàn bạc và quyết định số lượng lễ vật dẫn cưới đi sâu vào từng khoản cụ thể
như: bao nhiêu tiền bạc, bao nhiêu cân lợn móc hàm, bao nhiêu bạc giấy, bao
nhiêu bạc già, bao nhiêu rượu và định thời gian trao cho nhà gái. Ngày làm lễ
cưới phải chọn rất cẩn thận. Từ lễ ăn hỏi đến ngày cưới kéo dài từ 2 đến 3
năm.
Nhà trai chọn được ngày lành tháng tốt sẽ
chủ động làm lễ báo ngày cưới, lễ này phải tiến hành trước từ 2 đến 3 tháng trở
lên để nhà gái và nhà trai có nhiều ngày tháng thông báo cho những người đã giao
ước hứa hẹn giúp các khoản gạo, rượu, lợn... và có thêm thời gian mời bạn bè, họ
hàng
Tại buổi lễ báo ngày cưới gia đình nhà gái
quyết định mọi vấn đề cụ thể cho lễ cưới. Nhà trai cử một người con trai hoạt
bát nhanh nhẹn am hiểu các phong tục tập quán liên quan đến đám cưới sang nhà
gái bàn bạc mọi việc lễ vật gồm: 3 lít rượu, một con gà sống thiến, 12 cái bánh
dày đưa sang nhà gái. Nhà gái mời anh em họ hàng thân thích đến bàn và chứng
kiến nhà trai trao các lễ vật như: Tiền mặt, bạc già, dây truyền bạc, vòng bạc,
cúc bạc, hoa tai... với số lượng đã được định ở lễ ăn hỏi. Số tiền đưa trước này
để cho nhà gái mua sắm hòm, chăn màn, chiếu để làm của hồi môn cho con gái.
Trong buổi lễ báo ngày cưới, hai bên cũng bàn bạc ngày giờ tốt dẫn đại lễ, định
ngày giờ chú rể sang đón dâu và cô dâu xuống nhà để sang nhà
chồng.
Ngày cưới nếu mời nhiều khách, phải mổ lợn
từ 1 đến 2 tạ (thịt lợn móc hàm), rượu 100 đến 150 lít, tổ chức ăn uống từ 1 đến
2 ngày. Nhà trai phải dẫn sang nhà gái từ tối hôm trước một con lợn to, béo
khoảng 80 đến 100kg cộng 100kg gạo tẻ, 100 lít rượu ngon, rượu dẫn lễ trước khi
nấu kị nhất là rượu khê, chua. Nhà gái mổ con lợn dẫn lễ của nhà trai, nếu mời
đông khách, phải mổ thêm lợn nhà mình. Việc tiếp khách chủ yếu là khách ở gần ăn
2 bữa, khách ở xa và người thân nội ngoại cũng như nhà trai và nhà gái ăn 2
ngày, các vị khách được mời dự lễ cưới đều có tiền mừng, người thì bằng tiền
mặt, người thì bằng vật chất như: khăn mặt, chăn màn. Gia đình cử một người
trong dòng họ biết viết chữ ghi chép lễ mừng của khách, mỗi một khách đến mừng,
người ghi sổ mời lại một chén rượu tạ
ơn.
Đón dâu linh
đình
Lễ đón dâu phải đúng thời gian qui định đã
được ước hẹn trong lễ báo ngày cưới vì ngày tốt đã chọn, đoàn chú rể bắt đầu từ
nhà trai sang nhà gái để đón dâu. Đoàn chú rể có một đôi vợ chồng trẻ đã xây
dựng gia đình có con, làm đoàn trưởng cùng với phù rể và khoảng từ 8 đến 10
người trong đó từ 4 đến 6 người là con gái chưa chồng, mặc quần áo mới, khăn
giầy mới, mọi người trong đoàn đều không bệnh tật, ốm đau ăn nói hoạt bát, hiểu
biết các câu đối đáp của nhà gái trong lễ cưới và thuộc nhiều bài hát lướn mừng
đám cưới và có tài ứng khẩu thành văn tại chỗ. Theo phong tục tập quán, họ kiêng
con số lẻ. Khi đoàn chú rể lên đường, bố mẹ hoặc ông thầy cúng đưa cho chú rể
một cái ô đã mở sẵn và quàng một chiếc khăn bằng vải đỏ dài từ vai đến hông để
dân làng biết đó là chú rể đi đón dâu và chúc đoàn đi trên đường gặp mọi sự may
mắn, tốt lành, đi đến nơi về đến chốn. Đoàn chú rể ở nhà ra đi đúng giờ và đến
nhà cô dâu cũng phải đúng giờ qui định. Việc đưa đón cô dâu có thành công hay
không là do những người đại diện bố mẹ nhà trai, nó cũng quyết định sau này đôi
vợ chồng trẻ làm ăn mới được may mắn, mọi mặt đều khá giả hoạt bát, con cái đông
vui và dễ có địa vị trong xã hội hay
không.
Đoàn đưa dâu cũng phải có đôi vợ chồng trẻ
đại diện bố mẹ nhà gái có trách nhiệm giao tiếp với nhà trai và hướng dẫn cô dâu
các nghi lễ cần thiết. Cứ nhà trai đi đón 8 người thì nhà gái phải đưa 10 người
tức là hơn hai... Tiêu chuẩn là những bạn gái chưa có chồng, thuộc nhiều bài hát
lướn. Người đại diện bố mẹ hai bên đều thưa gửi bằng lời ca tiếng hát thay cho
câu đối thoại thông thường giữa hai
họ.
Khi chú rể đến nhà gái phải cúi lạy bàn thờ
tổ tiên và các cụ trong mâm cỗ. Các cô gái chờ dịp té nước vào chú rể, chú rể bị
té nước nhiều, đó là điều may
mắn.
Khi đoàn đưa dâu ra khỏi nhà, cô dâu phải
cưỡi ngựa, không được đi bộ đến nhà trai. Đến nhà trai, cô dâu xuống ngựa và
phải ở ngoài sân cho thầy cúng làm thủ tục diệt trừ tà ma và cầu phúc cho đôi
bạn trẻ khỏe mạnh làm ăn phát đạt. Làm xong thủ tục, cô dâu cầm một bát nước lên
nhà đổ vào chảo đã đặt sẵn ở trên bếp đun cho bố mẹ rửa mặt. Cô dâu xách theo
một cum lúa đặt lên bàn thờ cúng tổ tiên đánh dấu việc trưởng thành của đôi bạn
trẻ cũng là niềm vui, niềm hy vọng cuộc sống tốt đẹp của một gia đình
mới.
Mọi người đến dự cưới là tất cả anh em, dân
bản và những người bạn của gia đình, lễ cưới vui vẻ, hai gia đình thể hiện lòng
quý khách. Họ chúc rượu, hát đối vui mừng, tạo nên không khí vui tươi như ngày
hội của bản
làng.
Thời điểm tổ chức lễ cưới của dân tộc Nùng
Xín Mần từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 Âm lịch năm sau. Lễ cưới được phân ra
làm ba lớp, đứng đầu là các cụ ông, cụ bà được xếp vào cùng mâm ở chỗ trang
trọng nhất, để các cụ nói chuyện với nhau và cũng có khi hát đối đáp với nhau.
Lớp thứ hai là các bạn trẻ của hai cô dâu chú rể, họ ngồi cùng ăn cùng hát lướn
mừng cho hai bên gia đình. Đây là một tập tục đặc sắc nhất. Họ sẽ ăn cỗ uống
rượu và hát đối thâu đêm đến sáng. Lớp thứ ba là tất cả dân bản, bạn bè và những
người trong gia đình cùng ăn uống chuyện trò và có thể tham gia hát đối đáp với
nhau, không khí lễ cưới vui vẻ thường kéo dài trong hai, ba
ngày.
Minh Lý
Dân tộc Nùng ở huyện Xín mần cư trú trong
những làng bản lẻ loi và heo hút giữa khung cảnh thiên nhiên bao la, hùng vĩ. Họ
coi con người là vốn quí, coi trọng hôn nhân và luôn mong muốn nhà có đông con
cháu sum vầy, cho nên việc tiến hành lễ cưới được chuẩn bị công phu và người
Nùng U coi đó là cơ hội đầu tiên làm nên gia đình, làm nên xã
hội.
Người Nùng coi việc cưới xin là thiêng
liêng nhất của đời người, là ngày hội của dòng họ, hàng xóm láng
giềng.
Gom tiền, nuôi lợn chuẩn bị
cưới…
Người Nùng coi việc cưới xin là thiêng
liêng nhất của đời người, là ngày hội của dòng họ, hàng xóm láng giềng. Lễ cưới
được cộng đồng sáng tạo nên nhằm trình bày những khát vọng thẩm mĩ của con
người.
Khi con cái trong nhà bắt đầu lớn, người
Nùng U tính ngay đến việc dựng vợ gả chồng cho con để sớm có con cháu, đông vui
nhà cửa. Người cha hết sức quan tâm, chuẩn bị tổ chức lễ cưới chu đáo cho các
con.
Theo tập quán gia đình nhà gái sẽ mua sắm
cho con gái một ít đồ dùng cần thiết gọi là của hồi môn. Ngày nhà trai đón dâu,
cô gái sẽ mang của hồi môn về nhà chồng như: chăn màn, áo váy, 2 cái hòm đựng đồ
dùng hàng ngày, 2 cái chiếu cói, 2 khăn rửa mặt và 2 bộ quần áo cho bố mẹ chồng.
Việc mua sắm này dẫn đến thách cưới của bên nhà gái to hay nhỏ. Lễ cưới càng
linh đình thì càng đông vui, người ta coi đó là bước đầu xây dựng hạnh phúc lớn
và cuộc tình duyên bền vững lâu
dài.
Còn gia đình có con trai lớn thông thường
là 14 đến 15 tuổi, cha mẹ phải lo tìm vợ cho con. Đám cưới của dân tộc Nùng tốn
kém rất nhiều tiền của cho nên cha mẹ phải lo sớm những việc cần thiết như tiền
bạc, quần áo, đồ trang sức..., nếu thiếu tiền nhà trai phải vay mượn anh em họ
hàng. Số tiền giúp này được coi như tiền gửi nhau, sau này sẽ được hoàn trả đầy
đủ khi gia đình người giúp mình cũng lo việc cưới. Người Nùng coi việc giúp nhau
là việc hệ trọng và họ không tính đến tiền lãi, một khi đã hứa giúp, người ta
giữ đúng lời hứa, không ai dám để lỡ hẹn. Lễ cưới con bạn cũng coi như lễ cưới
con mình.
Trong đám cưới, nhà trai phải có lợn dẫn lễ
sang nhà gái. Mỗi đám cưới phải có từ 80 đến 100kg lợn móc hàm, nhà trai phải tự
nuôi từ 3 đến 5
năm.
Gia đình có con trai từ 12 tuổi, cha mẹ đã
đặt vấn đề ướm tìm con dâu tương
lai.
Ướm nàng dâu tương
lai
Gia đình có con trai từ 12 tuổi, cha mẹ đã
đặt vấn đề ướm tìm con dâu tương lai, qua những người thân bên nội, ngoại hay
các vị thân thích, bạn bè, cha mẹ các chàng trai sẽ tiến hành thẩm tra, hỏi han,
thăm dò về đạo đức, tính nết, tác phong, cách cư xử, sự quan hệ giao du bạn bè,
lai lịch gia đình của cô con gái xem dòng họ có môn đặng hộ đối, có “sạch sẽ”
hay không (“sạch sẽ” ở đây là không có “ma gà”). Nếu nghi có ma gà, họ lập tức
bỏ qua ngay, vì họ cho rằng ma gà sẽ di truyền từ đời này sang đời khác làm con
trai khó lấy vợ, con gái khó lấy
chồng.
Bắt đầu các nghi
lễ…
Khi tìm được những cô gái ưng ý cho con
trai, bố mẹ đầu tiên sẽ trực tiếp trao đổi với cha mẹ nhà gái. Ở buổi gặp gỡ này
chưa có lễ vật nào. Khi được nhà gái ưng thuận, nhà trai xin nhà gái cho biết
ngày, giờ, tháng năm sinh của cô gái (tính theo tuổi Âm lịch) để đem về nhà nhờ
ông thầy tướng số xem giúp hai đứa trẻ có hợp hay sung, cuộc sống tương lai của
đôi trẻ sau này có hạnh phúc
không.
Khi thấy hợp tuổi nhà trai sẽ làm lễ dạm.
Đến lúc này, cha mẹ con trai và cha mẹ con gái mới cho các con biết tin và hỏi ý
kiến các con có nhất trí lấy người đó làm vợ, làm chồng hay không. Nếu đôi trẻ
ưng thuận, nhà trai tìm bà mai mối. Bà mai mối là người đã có gia đình và có con
trai, con gái, thường nói là (có nếp có tẻ) là người nhanh nhẹn hoạt bát, hiểu
biết khá rõ các nghi thức mai mối thay mặt nhà trai đến nhà gái bàn luận việc
hôn thú của đôi trẻ. Nếu nhà gái cũng nhất trí, lần thứ hai sẽ mang một chai
rượu và một gói kẹo, buộc vào cổ chai rượu một sợi dây đỏ hoặc vải đỏ đặt lên
bàn thờ, sau bảy ngày, nếu nhà gái không trả lại thì coi như bố mẹ nhà gái đã
nhất trí việc dẫn lễ ăn
hỏi.
Sau lễ dạm hỏi thì đến lễ ăn hỏi được tổ
chức trang trọng hơn, sau lễ dạm hỏi khoảng độ ba tháng. Nhà trai phải báo trước
một tháng trở lên để nhà gái có thời gian mời người thân thích bên nội, ngoại,
bạn bè xa gần dến
dự.
Trong buổi lễ ăn hỏi, hai bên bàn bạc nhiều
vấn đề quan trọng liên quan đến đám cưới như: của hồi môn, tiền bạc, chăn màn,
ngày giờ đón dâu... Trên cơ sở đó nhà trai chọn cử ra một người con trai hoạt
bát, tháo vát biết về nhiều thủ tục cưới xin để thay mặt nhà trai bàn bạc và
quyết định mọi việc xung quanh về lễ cưới ở bên nhà
gái.
Các lễ vật cho lễ ăn hỏi gồm: một con lợn
hơi 60 kg, 12 chiếc bánh dày, 15 lít rượu, 1 vòng bạc. Nhà gái mời khách đến dự
lễ ăn hỏi và cử ra một đại diện phát ngôn chính trong lễ ăn hỏi. Hai bên trao
đổi bàn bạc và quyết định số lượng lễ vật dẫn cưới đi sâu vào từng khoản cụ thể
như: bao nhiêu tiền bạc, bao nhiêu cân lợn móc hàm, bao nhiêu bạc giấy, bao
nhiêu bạc già, bao nhiêu rượu và định thời gian trao cho nhà gái. Ngày làm lễ
cưới phải chọn rất cẩn thận. Từ lễ ăn hỏi đến ngày cưới kéo dài từ 2 đến 3
năm.
Nhà trai chọn được ngày lành tháng tốt sẽ
chủ động làm lễ báo ngày cưới, lễ này phải tiến hành trước từ 2 đến 3 tháng trở
lên để nhà gái và nhà trai có nhiều ngày tháng thông báo cho những người đã giao
ước hứa hẹn giúp các khoản gạo, rượu, lợn... và có thêm thời gian mời bạn bè, họ
hàng
Tại buổi lễ báo ngày cưới gia đình nhà gái
quyết định mọi vấn đề cụ thể cho lễ cưới. Nhà trai cử một người con trai hoạt
bát nhanh nhẹn am hiểu các phong tục tập quán liên quan đến đám cưới sang nhà
gái bàn bạc mọi việc lễ vật gồm: 3 lít rượu, một con gà sống thiến, 12 cái bánh
dày đưa sang nhà gái. Nhà gái mời anh em họ hàng thân thích đến bàn và chứng
kiến nhà trai trao các lễ vật như: Tiền mặt, bạc già, dây truyền bạc, vòng bạc,
cúc bạc, hoa tai... với số lượng đã được định ở lễ ăn hỏi. Số tiền đưa trước này
để cho nhà gái mua sắm hòm, chăn màn, chiếu để làm của hồi môn cho con gái.
Trong buổi lễ báo ngày cưới, hai bên cũng bàn bạc ngày giờ tốt dẫn đại lễ, định
ngày giờ chú rể sang đón dâu và cô dâu xuống nhà để sang nhà
chồng.
Ngày cưới nếu mời nhiều khách, phải mổ lợn
từ 1 đến 2 tạ (thịt lợn móc hàm), rượu 100 đến 150 lít, tổ chức ăn uống từ 1 đến
2 ngày. Nhà trai phải dẫn sang nhà gái từ tối hôm trước một con lợn to, béo
khoảng 80 đến 100kg cộng 100kg gạo tẻ, 100 lít rượu ngon, rượu dẫn lễ trước khi
nấu kị nhất là rượu khê, chua. Nhà gái mổ con lợn dẫn lễ của nhà trai, nếu mời
đông khách, phải mổ thêm lợn nhà mình. Việc tiếp khách chủ yếu là khách ở gần ăn
2 bữa, khách ở xa và người thân nội ngoại cũng như nhà trai và nhà gái ăn 2
ngày, các vị khách được mời dự lễ cưới đều có tiền mừng, người thì bằng tiền
mặt, người thì bằng vật chất như: khăn mặt, chăn màn. Gia đình cử một người
trong dòng họ biết viết chữ ghi chép lễ mừng của khách, mỗi một khách đến mừng,
người ghi sổ mời lại một chén rượu tạ
ơn.
Đón dâu linh
đình
Lễ đón dâu phải đúng thời gian qui định đã
được ước hẹn trong lễ báo ngày cưới vì ngày tốt đã chọn, đoàn chú rể bắt đầu từ
nhà trai sang nhà gái để đón dâu. Đoàn chú rể có một đôi vợ chồng trẻ đã xây
dựng gia đình có con, làm đoàn trưởng cùng với phù rể và khoảng từ 8 đến 10
người trong đó từ 4 đến 6 người là con gái chưa chồng, mặc quần áo mới, khăn
giầy mới, mọi người trong đoàn đều không bệnh tật, ốm đau ăn nói hoạt bát, hiểu
biết các câu đối đáp của nhà gái trong lễ cưới và thuộc nhiều bài hát lướn mừng
đám cưới và có tài ứng khẩu thành văn tại chỗ. Theo phong tục tập quán, họ kiêng
con số lẻ. Khi đoàn chú rể lên đường, bố mẹ hoặc ông thầy cúng đưa cho chú rể
một cái ô đã mở sẵn và quàng một chiếc khăn bằng vải đỏ dài từ vai đến hông để
dân làng biết đó là chú rể đi đón dâu và chúc đoàn đi trên đường gặp mọi sự may
mắn, tốt lành, đi đến nơi về đến chốn. Đoàn chú rể ở nhà ra đi đúng giờ và đến
nhà cô dâu cũng phải đúng giờ qui định. Việc đưa đón cô dâu có thành công hay
không là do những người đại diện bố mẹ nhà trai, nó cũng quyết định sau này đôi
vợ chồng trẻ làm ăn mới được may mắn, mọi mặt đều khá giả hoạt bát, con cái đông
vui và dễ có địa vị trong xã hội hay
không.
Đoàn đưa dâu cũng phải có đôi vợ chồng trẻ
đại diện bố mẹ nhà gái có trách nhiệm giao tiếp với nhà trai và hướng dẫn cô dâu
các nghi lễ cần thiết. Cứ nhà trai đi đón 8 người thì nhà gái phải đưa 10 người
tức là hơn hai... Tiêu chuẩn là những bạn gái chưa có chồng, thuộc nhiều bài hát
lướn. Người đại diện bố mẹ hai bên đều thưa gửi bằng lời ca tiếng hát thay cho
câu đối thoại thông thường giữa hai
họ.
Khi chú rể đến nhà gái phải cúi lạy bàn thờ
tổ tiên và các cụ trong mâm cỗ. Các cô gái chờ dịp té nước vào chú rể, chú rể bị
té nước nhiều, đó là điều may
mắn.
Khi đoàn đưa dâu ra khỏi nhà, cô dâu phải
cưỡi ngựa, không được đi bộ đến nhà trai. Đến nhà trai, cô dâu xuống ngựa và
phải ở ngoài sân cho thầy cúng làm thủ tục diệt trừ tà ma và cầu phúc cho đôi
bạn trẻ khỏe mạnh làm ăn phát đạt. Làm xong thủ tục, cô dâu cầm một bát nước lên
nhà đổ vào chảo đã đặt sẵn ở trên bếp đun cho bố mẹ rửa mặt. Cô dâu xách theo
một cum lúa đặt lên bàn thờ cúng tổ tiên đánh dấu việc trưởng thành của đôi bạn
trẻ cũng là niềm vui, niềm hy vọng cuộc sống tốt đẹp của một gia đình
mới.
Mọi người đến dự cưới là tất cả anh em, dân
bản và những người bạn của gia đình, lễ cưới vui vẻ, hai gia đình thể hiện lòng
quý khách. Họ chúc rượu, hát đối vui mừng, tạo nên không khí vui tươi như ngày
hội của bản
làng.
Thời điểm tổ chức lễ cưới của dân tộc Nùng
Xín Mần từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 Âm lịch năm sau. Lễ cưới được phân ra
làm ba lớp, đứng đầu là các cụ ông, cụ bà được xếp vào cùng mâm ở chỗ trang
trọng nhất, để các cụ nói chuyện với nhau và cũng có khi hát đối đáp với nhau.
Lớp thứ hai là các bạn trẻ của hai cô dâu chú rể, họ ngồi cùng ăn cùng hát lướn
mừng cho hai bên gia đình. Đây là một tập tục đặc sắc nhất. Họ sẽ ăn cỗ uống
rượu và hát đối thâu đêm đến sáng. Lớp thứ ba là tất cả dân bản, bạn bè và những
người trong gia đình cùng ăn uống chuyện trò và có thể tham gia hát đối đáp với
nhau, không khí lễ cưới vui vẻ thường kéo dài trong hai, ba
ngày.
Minh Lý