Theo chu kỳ 12 năm, người Nùng (sông Mao – Bình Thuận)
lại tổ chức lễ cầu an. Đây là một trong những nét văn hóa tiêu biểu trong đời
sống tinh thần của người Nùng nơi đây. Cũng như một số cộng đồng dân tộc khác,
người Nùng quan niệm rằng ở trần gian có đủ thứ tà, ma mà con người không thể
trông thấy được. Chúng gieo rắc tai họa, bệnh tật và những vận rủi cho dân
lành.
Từ suy nghĩ đó, người Nùng thấy cần làm lễ Cầu an - cầu
siêu cho các linh hồn người chết oan ức được siêu thoát, trừ tà ma để cầu yên
cho xóm làng. Để chuẩn bị cho lễ Cầu an, Ban tế lễ của làng chọn nơi đất trống
nằm về hướng đông để hành lễ. Trước khi diễn ra lễ chính khoảng 60 ngày, Ban tế
lễ sẽ dựng cây Phướn Cáo Bạch tại sân lễ để thông cáo cho dân trong làng, đồng
thời cũng để cáo phó với trời
đất.
Trên ngọn Phướn có buộc sợi dây Phướn bằng vải đỏ đề 8
chữ: “Mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an” bằng chữ Hoa. Trong nghi thức này
người ta dựng khá nhiều Phướn như Phướn Văn (tượng trưng cho việc cầu sinh nở và
sự trường tồn, bất tử), Phướn Võ (tượng trưng cầu phước lộc đầy nhà, làm ăn buôn
bán được thuận lợi và giàu có). Trên mỗi ngọn Phướn được buộc một sợi dây Phướn
bằng vải đỏ, trên đó có viết tên làng xã tổ chức lễ Cầu an và nội dung cầu khấn,
sau đó dây phướn được buộc trước gian thờ Ban văn và Ban
võ.
Trên thân Phướn, cách mặt đất khoảng 2 mét, người ta treo
một chiếc lồng đèn luôn được thắp sáng, với mong muốn những điều cầu mong của
người dân sẽ được các đấng tối cao nhận thấy. Tiếp theo là lễ rước Phướn ông
Tiêu (cai quản hỏa ngục). Đoàn rước ông Tiêu sẽ đi đến các đền, chùa, miếu để
xin phép các vị thần linh cho dân làng thực hiện lễ Cầu an. Cuối cùng là rước
Thánh Quan Âm và Thánh chỉ về sân lễ chứng giám.
Ngay sau những nghi thức trên là lễ thỉnh cây tre “Cửu
lang” - đây là cây tre Phướn tượng trưng cho các vị thần linh có uy vũ, có khả
năng gọi được tất cả những oan hồn, quỷ dữ thường hay quấy phá đời sống lao động
của người dân. Tre Phướn Cửu lang được dựng tại sân lễ, được xem như thiên lệnh
giúp ông Tiêu tập trung tất cả những nguyệt oan, khuất tất để thực hiện việc
siêu độ, hóa giải cho các linh hồn được đầu thai kiếp khác. Tiếp theo lễ thỉnh
Cửu Lang là các lễ xin Ban nước và Thỉnh nước về tẩy uế sân lễ, chuẩn bị cho lễ
Thượng Đao Sơn, lễ Qua Hỏa Liên (qua than hồng), Lễ đốt hình nhân ông Tiêu và hạ
tre Phướn ông
Tiêu…
Có thể nói, lễ Cầu an (Tả tài phán), là một lễ hội có qui
mô lớn của người Nùng, thể hiện được nét đặc trưng văn hóa truyền thống của dân
tộc, với quan điểm nhân sinh quan và thế giới quan rộng mở, hướng đến sự an lành
và những điều tốt đẹp nhất cho con người, cho cộng đồng. Điều ấy đã góp phần gìn
giữ và làm phong phú thêm cho bản sắc văn hóa của dân tộc Việt trong hiện tại và
tương lai.
Minh Thuận
Theo chu kỳ 12 năm, người Nùng (sông Mao – Bình Thuận)
lại tổ chức lễ cầu an. Đây là một trong những nét văn hóa tiêu biểu trong đời
sống tinh thần của người Nùng nơi đây. Cũng như một số cộng đồng dân tộc khác,
người Nùng quan niệm rằng ở trần gian có đủ thứ tà, ma mà con người không thể
trông thấy được. Chúng gieo rắc tai họa, bệnh tật và những vận rủi cho dân
lành.
Từ suy nghĩ đó, người Nùng thấy cần làm lễ Cầu an - cầu
siêu cho các linh hồn người chết oan ức được siêu thoát, trừ tà ma để cầu yên
cho xóm làng. Để chuẩn bị cho lễ Cầu an, Ban tế lễ của làng chọn nơi đất trống
nằm về hướng đông để hành lễ. Trước khi diễn ra lễ chính khoảng 60 ngày, Ban tế
lễ sẽ dựng cây Phướn Cáo Bạch tại sân lễ để thông cáo cho dân trong làng, đồng
thời cũng để cáo phó với trời
đất.
Trên ngọn Phướn có buộc sợi dây Phướn bằng vải đỏ đề 8
chữ: “Mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an” bằng chữ Hoa. Trong nghi thức này
người ta dựng khá nhiều Phướn như Phướn Văn (tượng trưng cho việc cầu sinh nở và
sự trường tồn, bất tử), Phướn Võ (tượng trưng cầu phước lộc đầy nhà, làm ăn buôn
bán được thuận lợi và giàu có). Trên mỗi ngọn Phướn được buộc một sợi dây Phướn
bằng vải đỏ, trên đó có viết tên làng xã tổ chức lễ Cầu an và nội dung cầu khấn,
sau đó dây phướn được buộc trước gian thờ Ban văn và Ban
võ.
Trên thân Phướn, cách mặt đất khoảng 2 mét, người ta treo
một chiếc lồng đèn luôn được thắp sáng, với mong muốn những điều cầu mong của
người dân sẽ được các đấng tối cao nhận thấy. Tiếp theo là lễ rước Phướn ông
Tiêu (cai quản hỏa ngục). Đoàn rước ông Tiêu sẽ đi đến các đền, chùa, miếu để
xin phép các vị thần linh cho dân làng thực hiện lễ Cầu an. Cuối cùng là rước
Thánh Quan Âm và Thánh chỉ về sân lễ chứng giám.
Ngay sau những nghi thức trên là lễ thỉnh cây tre “Cửu
lang” - đây là cây tre Phướn tượng trưng cho các vị thần linh có uy vũ, có khả
năng gọi được tất cả những oan hồn, quỷ dữ thường hay quấy phá đời sống lao động
của người dân. Tre Phướn Cửu lang được dựng tại sân lễ, được xem như thiên lệnh
giúp ông Tiêu tập trung tất cả những nguyệt oan, khuất tất để thực hiện việc
siêu độ, hóa giải cho các linh hồn được đầu thai kiếp khác. Tiếp theo lễ thỉnh
Cửu Lang là các lễ xin Ban nước và Thỉnh nước về tẩy uế sân lễ, chuẩn bị cho lễ
Thượng Đao Sơn, lễ Qua Hỏa Liên (qua than hồng), Lễ đốt hình nhân ông Tiêu và hạ
tre Phướn ông
Tiêu…
Có thể nói, lễ Cầu an (Tả tài phán), là một lễ hội có qui
mô lớn của người Nùng, thể hiện được nét đặc trưng văn hóa truyền thống của dân
tộc, với quan điểm nhân sinh quan và thế giới quan rộng mở, hướng đến sự an lành
và những điều tốt đẹp nhất cho con người, cho cộng đồng. Điều ấy đã góp phần gìn
giữ và làm phong phú thêm cho bản sắc văn hóa của dân tộc Việt trong hiện tại và
tương lai.
Minh Thuận