Ngày nay chỉ có phụ nữ mới thường xuyên mặc
áo chàm Nùng An
Phúc Sen là một trong những xã tiêu biểu,
nổi tiếng của huyện Quảng Uyên (Cao Bằng) bởi những làng nghề truyền thống như
rèn dao búa, làm hương trầm, dệt vải
chàm…
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến
nay người Nùng An xã Phúc Sen vẫn lưu giữ và phát huy được nét đẹp văn hóa mang
đậm bản sắc dân tộc, thể hiện qua nhiều mặt của đời sống văn hóa vật chất, tinh
thần và các mối quan hệ xã hội, từ ẩm thực, trang phục, đến các nghề truyền
thống của cha ông.
Phúc Sen có 10 thôn, bản với hơn 423 hộ
dân, 100% là dân tộc Nùng An. Những bản làng của người Nùng An thuộc xã Phúc
Sen, huyện Quảng Uyên (Cao Bằng) nằm yên bình dưới chân những dãy núi đá được
che phủ một màu xanh ngắt của những cây nghiến, cây mạy rạc, xung quanh là những
cánh đồng rộng. Nét văn hóa truyền thống của người dân nơi đây được thể hiện
ngay trong kiến trúc của mỗi ngôi nhà, bởi vật liệu không thể thiếu là
đá.
Những ngôi nhà sàn được xây, xếp bằng đá
hộc, cột nghiến, mái lợp ngói âm dương; bậc cầu thang lên sàn cũng được xếp bằng
đá, bể nước nhỏ rửa chân trước nhà cũng bằng đá. Trong nhà, nhiều vật dụng cũng
làm bằng đá như: Cối xay, cối giã gạo, đá kê làm bếp, đá kê chân cột nhà...
Nhiều con đường vào các xóm cũng được lát bằng những viên đá, những bức tường
rào ngăn cách giữa các ngôi nhà, khu vườn, thửa ruộng đều được xếp bằng
đá...
Trong khi cảnh vật thiên nhiên tạo nên nét
đặc trưng ở Phúc Sen thì con người nơi đây lại thể hiện một nét đẹp riêng biệt
so với các dân tộc khác bằng các trang phục truyền thống thường ngày của họ.
Trang phục truyền thống của cả nam lẫn nữ đều làm từ vải chàm, do những người
phụ nữ Nùng An cần cù chịu khó làm
nên.
Một trong những vật dụng không thể thiếu
trong mỗi căn nhà ở Phúc Sen đó là khung cửi dệt vải. Cây đay, cây bông sau khi
thu hoạch được ngâm tuốt xe thành sợi, qua bàn tay của người phụ nữ, những tấm
vải được hình thành. Nét đẹp của chiếc áo chàm thể hiện ở dáng điệu, đường nét,
đặc biệt là màu chàm khác biệt làm tôn lên nước da của người phụ nữ, chiếc đai
thắt ngang lưng tăng thêm vẻ đẹp của loại trang phục
này.
Hiện nay, các loại quần áo may sẵn bán
nhiều nên vải chàm được dệt ít nhưng người Nùng An vẫn thường xuyên mặc những bộ
quần áo truyền thống của mình trong sinh hoạt hằng ngày, khi đi học, đi chợ, đám
cưới và lễ hội; mùi thơm của vải chàm đã gắn bó với họ từ lâu đời và họ tự hào
về bộ quần áo chàm mang đậm bản sắc của người Nùng
An.
Bà Lương Thị Vìn (60 tuổi) ở bản Khao B
đang phơi trang phục truyền thống của dân tộc mình.
Bà Lương Thị Vìn (60 tuổi) ở bản Khao B, xã
Phúc Sen cho biết: "Đối với riêng người Nùng An chúng tôi thì từ trước đến nay,
trang phục truyền thống luôn được giữ gìn, ưa chuộng vì quần áo làm từ vải bông
mặc rất thoải mái, mát mẻ vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông. Tất cả các bộ trang
phục tôi mặc đều do tôi tự dệt, nhuộm và cắt may. Người già chúng tôi cũng
thường xuyên kể cho con cháu trong gia đình về truyền thống của dân tộc Nùng và
nhắc nhở con cháu giữ gìn truyền thống của người
Nùng".
Theo nhiều phụ nữ Nùng An ở Phúc Sen, để
dệt được những tấm vải chàm mất khá nhiều công sức và qua nhiều công đoạn. Bông
thu hoạch về được phơi qua mấy nắng rồi đem cán để tách riêng phần hạt và phần
bông. Sau khi bông đã được cán thì đem bật và kéo thành những cuộn sợi nhỏ. Sau
đó là hồ sợi, công việc khá cầu kỳ. Hồ được làm từ ngô, 1kg sợi dùng 1kg ngô xay
vỡ đôi, vỡ ba, đem ninh nhừ rồi vắt bỏ phần bã. Sợi bông được ngâm với tinh chất
ngô khoảng 2 giờ đồng hồ rồi đem phơi khô, đến khi nào những sợi bông tách nhau
ra và cuốn thành những cuộn sợi dai và chắc. Tiếp theo là đưa lên khung cửi để
dệt ra những tấm vải, và để có những tấm vải chàm thì cần phải qua bước nhuộm
vải. Đây là công đoạn khá phức tạp, những cây chàm được lấy về ngâm cho nát nhừ
và tinh lọc giữ lại phần tinh bột của
chàm.
Tinh bột chàm được đun sôi cùng với một số
loại lá cây như cúc tần, chanh, thanh thảo, bưởi... đến khi nước nhuộm nổi bọt
mới được. Mỗi ngày vải được nhúng thuốc nhuộm ba lần, mỗi lần nhúng lại đem vải
phơi khô rồi lại nhúng vào thuốc nhuộm. Sau ba lần nhuộm, vải được phơi khô và
giặt sạch, sau một ngày lại lặp lại công việc nhuộm vải của ngày đầu tiên và cứ
đủ 5 lần ngâm, giặt, phơi thì được một tấm vải chàm. Vải chàm tốt là vải có màu
sắc đen ánh đỏ và rất
bền.
Chị Lương Thị Hợi (47 tuổi) ở bản Khao A,
xã Phúc Sen chia sẻ: "Dệt vải chàm đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế, tỉ mỉ đến từng
chi tiết nhỏ. Một vuông vải chàm có thể may váy, may áo, làm mặt gối, mặt chăn,
làm khăn đội đầu, hay cũng có khi là dùng để thêu thùa, trang trí trong gia
đình. Không biết từ bao giờ, vải chàm đã tạo nên nét duyên dáng trong trang phục
của người con gái dân tộc, làm thăng hoa hương sắc thổ cẩm. Những họa tiết thổ
cẩm với sắc màu rực rỡ, được khéo léo thêu trên nền sắc chàm dung dị đã tạo nên
cái "hồn" của mỗi trang phục dân tộc; chỉ cần nhìn vào vuông vải cũng có thể
nhận ra được nét tinh hoa văn hóa của từng dân tộc, từng vùng
miền".
Từ lâu, màu sắc và hoa văn vải chàm đã làm
nên nét văn hóa đặc trưng của người Nùng, Tày vùng Đông Bắc. Tuy nhiên, trong
nền kinh tế thị trường, việc gìn giữ, bảo vệ và phát huy những nghề truyền thống
như nghề dệt vải chàm không chỉ là một cá nhân, mà cần phải có định hướng của
các ngành, các cấp Cao Bằng, vừa nhằm giúp bà con xóa đói, giảm nghèo, vừa giữ
gìn những nét văn hóa độc đáo cho các thế hệ mai
sau.
Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa, trang
phục riêng. Trang phục như một thứ "ngôn ngữ" biểu đạt những nét đặc trưng
riêng, đặc sắc của từng dân tộc. Nhìn chung, trang phục truyền thống của các dân
tộc ở Cao Bằng đều được làm từ nguyên liệu chính là sợi bông, sợi tơ tằm và
lanh. Quy trình sản xuất hoàn toàn thủ công, được thực hiện trên khung cửi tự
tạo và chủ yếu là do người phụ nữ làm. Mỗi dân tộc trong cộng đồng cư dân Cao
Bằng có cách tạo hình trang trí và sử dụng trang phục theo những đặc điểm văn
hóa riêng của
mình.
Tuy nhiên, thời đại công nghiệp hóa ngày
nay đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo tồn và gìn giữ các trang phục truyền
thống của dân tộc và số làng xóm, vùng đồng bào tự dệt, nhuộm và may mặc như
đồng bào Nùng An, xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên hiện nay còn rất ít. Sắc chàm
của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Lô lô, Sán chỉ, nét hoa văn sặc sỡ của đồng
bào Mông, Dao... trước kia là nét đặc trưng nay đã được pha trộn với quần Tây,
áo sơ mi giống như dân tộc Kinh để thuận tiện cho công
việc.
Giai đoạn nhuộm
vải trong
chum
Chất liệu sản
xuất trang phục, cách thức trang trí hoa văn trên trang phục đang có những thay
đổi ngày càng xa rời nguyên bản, truyền thống: Nguyên liệu sợi bông,
tơ tằm do quá đắt được thay bằng len; Màu nhuộm chàm không
còn là màu tự nhiên; Khung cửi
thủ công thay bằng máy dệt công nghiệp, hoa văn trang trí không còn theo các
hình mẫu truyền
thống…
Thực tế, nhiều
dân tộc thiểu số ở vùng cao đã nhiều năm không còn dùng trang phục dân tộc trong
sinh hoạt ngày thường. Kể cả trong những ngày lễ, tết, hội
hè cũng đã ít nhiều vắng bóng trang phục truyền thống, nhất là lớp trẻ. Do thị
trường hàng hóa phát triển, nhiều yếu tố ngoại lai du nhập, thị hiếu thay đổi,
nghề dệt, nhuộm thủ công truyền thống không được chú ý hỗ trợ để sản xuất nguyên
liệu, đổi mới trang thiết bị, cải tiến mẫu mã và thông tin quảng cáo giới thiệu
sản phẩm… Đây cũng là một thay đổi mang tính tất yếu, cần thiết nhưng phải duy
trì bảo tồn những tinh hoa văn hóa của dân tộc
mình.
Bà Nông Thị Sô hàng ngày vẫn mặc trang phục
truyền
thống.
Bà Nông Thị Sô (70 tuổi) dân tộc Nùng An ở bản Phia Chang
(trên), xã Phúc Sen cho biết: "Bây giờ ra chợ mua các nguyên liệu như sợi bông, tơ tằm để dệt vải rất đắt, vì vậy đồng bào không đủ
điều kiện để mua về thêu, dệt, may mặc, còn mua sẵn cả bộ thì cũng mất vài ba
triệu đồng, trong khi đó những bộ quần áo của dân tộc Kinh bày bán ở chợ lại rất
rẻ. Hiện nay trang phục của đồng bào đã pha trộn với trang phục của dân tộc
Kinh. Nghề thêu, dệt trang phục dân tộc cũng đã bị mai một
dần.
Hiện nay để làm được một bộ trang phục mất rất nhiều thời
gian, tốn kém và khi mặc cũng lâu, bất tiện trong công việc. Người
dân ở Phúc Sen đa số còn gìn giữ được trang phục truyền thống hơn so với
các dân tộc khác trong tỉnh, nhưng chỉ có phụ nữ già tuổi mới mặc hàng ngày, còn
lại chỉ giữ cho mình 1 - 2 bộ để mặc vào những ngày lễ, tết, ngày hội. Các thế
hệ trẻ họ không quan tâm, nhưng với lớp già chúng tôi lại rất
nhiều trăn trở và lo
lắng".
Minh Phượng
Ngày nay chỉ có phụ nữ mới thường xuyên mặc
áo chàm Nùng
An
Phúc Sen là một trong những xã tiêu biểu,
nổi tiếng của huyện Quảng Uyên (Cao Bằng) bởi những làng nghề truyền thống như
rèn dao búa, làm hương trầm, dệt vải
chàm…
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến
nay người Nùng An xã Phúc Sen vẫn lưu giữ và phát huy được nét đẹp văn hóa mang
đậm bản sắc dân tộc, thể hiện qua nhiều mặt của đời sống văn hóa vật chất, tinh
thần và các mối quan hệ xã hội, từ ẩm thực, trang phục, đến các nghề truyền
thống của cha ông.
Phúc Sen có 10 thôn, bản với hơn 423 hộ
dân, 100% là dân tộc Nùng An. Những bản làng của người Nùng An thuộc xã Phúc
Sen, huyện Quảng Uyên (Cao Bằng) nằm yên bình dưới chân những dãy núi đá được
che phủ một màu xanh ngắt của những cây nghiến, cây mạy rạc, xung quanh là những
cánh đồng rộng. Nét văn hóa truyền thống của người dân nơi đây được thể hiện
ngay trong kiến trúc của mỗi ngôi nhà, bởi vật liệu không thể thiếu là
đá.
Những ngôi nhà sàn được xây, xếp bằng đá
hộc, cột nghiến, mái lợp ngói âm dương; bậc cầu thang lên sàn cũng được xếp bằng
đá, bể nước nhỏ rửa chân trước nhà cũng bằng đá. Trong nhà, nhiều vật dụng cũng
làm bằng đá như: Cối xay, cối giã gạo, đá kê làm bếp, đá kê chân cột nhà...
Nhiều con đường vào các xóm cũng được lát bằng những viên đá, những bức tường
rào ngăn cách giữa các ngôi nhà, khu vườn, thửa ruộng đều được xếp bằng
đá...
Trong khi cảnh vật thiên nhiên tạo nên nét
đặc trưng ở Phúc Sen thì con người nơi đây lại thể hiện một nét đẹp riêng biệt
so với các dân tộc khác bằng các trang phục truyền thống thường ngày của họ.
Trang phục truyền thống của cả nam lẫn nữ đều làm từ vải chàm, do những người
phụ nữ Nùng An cần cù chịu khó làm
nên.
Một trong những vật dụng không thể thiếu
trong mỗi căn nhà ở Phúc Sen đó là khung cửi dệt vải. Cây đay, cây bông sau khi
thu hoạch được ngâm tuốt xe thành sợi, qua bàn tay của người phụ nữ, những tấm
vải được hình thành. Nét đẹp của chiếc áo chàm thể hiện ở dáng điệu, đường nét,
đặc biệt là màu chàm khác biệt làm tôn lên nước da của người phụ nữ, chiếc đai
thắt ngang lưng tăng thêm vẻ đẹp của loại trang phục
này.
Hiện nay, các loại quần áo may sẵn bán
nhiều nên vải chàm được dệt ít nhưng người Nùng An vẫn thường xuyên mặc những bộ
quần áo truyền thống của mình trong sinh hoạt hằng ngày, khi đi học, đi chợ, đám
cưới và lễ hội; mùi thơm của vải chàm đã gắn bó với họ từ lâu đời và họ tự hào
về bộ quần áo chàm mang đậm bản sắc của người Nùng
An.
Bà Lương Thị Vìn (60 tuổi) ở bản Khao B
đang phơi trang phục truyền thống của dân tộc mình.
Bà Lương Thị Vìn (60 tuổi) ở bản Khao B, xã
Phúc Sen cho biết: "Đối với riêng người Nùng An chúng tôi thì từ trước đến nay,
trang phục truyền thống luôn được giữ gìn, ưa chuộng vì quần áo làm từ vải bông
mặc rất thoải mái, mát mẻ vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông. Tất cả các bộ trang
phục tôi mặc đều do tôi tự dệt, nhuộm và cắt may. Người già chúng tôi cũng
thường xuyên kể cho con cháu trong gia đình về truyền thống của dân tộc Nùng và
nhắc nhở con cháu giữ gìn truyền thống của người
Nùng".
Theo nhiều phụ nữ Nùng An ở Phúc Sen, để
dệt được những tấm vải chàm mất khá nhiều công sức và qua nhiều công đoạn. Bông
thu hoạch về được phơi qua mấy nắng rồi đem cán để tách riêng phần hạt và phần
bông. Sau khi bông đã được cán thì đem bật và kéo thành những cuộn sợi nhỏ. Sau
đó là hồ sợi, công việc khá cầu kỳ. Hồ được làm từ ngô, 1kg sợi dùng 1kg ngô xay
vỡ đôi, vỡ ba, đem ninh nhừ rồi vắt bỏ phần bã. Sợi bông được ngâm với tinh chất
ngô khoảng 2 giờ đồng hồ rồi đem phơi khô, đến khi nào những sợi bông tách nhau
ra và cuốn thành những cuộn sợi dai và chắc. Tiếp theo là đưa lên khung cửi để
dệt ra những tấm vải, và để có những tấm vải chàm thì cần phải qua bước nhuộm
vải. Đây là công đoạn khá phức tạp, những cây chàm được lấy về ngâm cho nát nhừ
và tinh lọc giữ lại phần tinh bột của
chàm.
Tinh bột chàm được đun sôi cùng với một số
loại lá cây như cúc tần, chanh, thanh thảo, bưởi... đến khi nước nhuộm nổi bọt
mới được. Mỗi ngày vải được nhúng thuốc nhuộm ba lần, mỗi lần nhúng lại đem vải
phơi khô rồi lại nhúng vào thuốc nhuộm. Sau ba lần nhuộm, vải được phơi khô và
giặt sạch, sau một ngày lại lặp lại công việc nhuộm vải của ngày đầu tiên và cứ
đủ 5 lần ngâm, giặt, phơi thì được một tấm vải chàm. Vải chàm tốt là vải có màu
sắc đen ánh đỏ và rất
bền.
Chị Lương Thị Hợi (47 tuổi) ở bản Khao A,
xã Phúc Sen chia sẻ: "Dệt vải chàm đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế, tỉ mỉ đến từng
chi tiết nhỏ. Một vuông vải chàm có thể may váy, may áo, làm mặt gối, mặt chăn,
làm khăn đội đầu, hay cũng có khi là dùng để thêu thùa, trang trí trong gia
đình. Không biết từ bao giờ, vải chàm đã tạo nên nét duyên dáng trong trang phục
của người con gái dân tộc, làm thăng hoa hương sắc thổ cẩm. Những họa tiết thổ
cẩm với sắc màu rực rỡ, được khéo léo thêu trên nền sắc chàm dung dị đã tạo nên
cái "hồn" của mỗi trang phục dân tộc; chỉ cần nhìn vào vuông vải cũng có thể
nhận ra được nét tinh hoa văn hóa của từng dân tộc, từng vùng
miền".
Từ lâu, màu sắc và hoa văn vải chàm đã làm
nên nét văn hóa đặc trưng của người Nùng, Tày vùng Đông Bắc. Tuy nhiên, trong
nền kinh tế thị trường, việc gìn giữ, bảo vệ và phát huy những nghề truyền thống
như nghề dệt vải chàm không chỉ là một cá nhân, mà cần phải có định hướng của
các ngành, các cấp Cao Bằng, vừa nhằm giúp bà con xóa đói, giảm nghèo, vừa giữ
gìn những nét văn hóa độc đáo cho các thế hệ mai
sau.
Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa, trang
phục riêng. Trang phục như một thứ "ngôn ngữ" biểu đạt những nét đặc trưng
riêng, đặc sắc của từng dân tộc. Nhìn chung, trang phục truyền thống của các dân
tộc ở Cao Bằng đều được làm từ nguyên liệu chính là sợi bông, sợi tơ tằm và
lanh. Quy trình sản xuất hoàn toàn thủ công, được thực hiện trên khung cửi tự
tạo và chủ yếu là do người phụ nữ làm. Mỗi dân tộc trong cộng đồng cư dân Cao
Bằng có cách tạo hình trang trí và sử dụng trang phục theo những đặc điểm văn
hóa riêng của
mình.
Tuy nhiên, thời đại công nghiệp hóa ngày
nay đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo tồn và gìn giữ các trang phục truyền
thống của dân tộc và số làng xóm, vùng đồng bào tự dệt, nhuộm và may mặc như
đồng bào Nùng An, xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên hiện nay còn rất ít. Sắc chàm
của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Lô lô, Sán chỉ, nét hoa văn sặc sỡ của đồng
bào Mông, Dao... trước kia là nét đặc trưng nay đã được pha trộn với quần Tây,
áo sơ mi giống như dân tộc Kinh để thuận tiện cho công
việc.
Giai đoạn nhuộm
vải trong
chum
Chất liệu sản
xuất trang phục, cách thức trang trí hoa văn trên trang phục đang có những thay
đổi ngày càng xa rời nguyên bản, truyền thống: Nguyên liệu sợi bông,
tơ tằm do quá đắt được thay bằng len; Màu nhuộm chàm không
còn là màu tự nhiên; Khung cửi
thủ công thay bằng máy dệt công nghiệp, hoa văn trang trí không còn theo các
hình mẫu truyền
thống…
Thực tế, nhiều
dân tộc thiểu số ở vùng cao đã nhiều năm không còn dùng trang phục dân tộc trong
sinh hoạt ngày thường. Kể cả trong những ngày lễ, tết, hội
hè cũng đã ít nhiều vắng bóng trang phục truyền thống, nhất là lớp trẻ. Do thị
trường hàng hóa phát triển, nhiều yếu tố ngoại lai du nhập, thị hiếu thay đổi,
nghề dệt, nhuộm thủ công truyền thống không được chú ý hỗ trợ để sản xuất nguyên
liệu, đổi mới trang thiết bị, cải tiến mẫu mã và thông tin quảng cáo giới thiệu
sản phẩm… Đây cũng là một thay đổi mang tính tất yếu, cần thiết nhưng phải duy
trì bảo tồn những tinh hoa văn hóa của dân tộc
mình.
Bà Nông Thị Sô hàng ngày vẫn mặc trang phục
truyền
thống.
Bà Nông Thị Sô (70 tuổi) dân tộc Nùng An ở bản Phia Chang
(trên), xã Phúc Sen cho biết: "Bây giờ ra chợ mua các nguyên liệu như sợi bông, tơ tằm để dệt vải rất đắt, vì vậy đồng bào không đủ
điều kiện để mua về thêu, dệt, may mặc, còn mua sẵn cả bộ thì cũng mất vài ba
triệu đồng, trong khi đó những bộ quần áo của dân tộc Kinh bày bán ở chợ lại rất
rẻ. Hiện nay trang phục của đồng bào đã pha trộn với trang phục của dân tộc
Kinh. Nghề thêu, dệt trang phục dân tộc cũng đã bị mai một
dần.
Hiện nay để làm được một bộ trang phục mất rất nhiều thời
gian, tốn kém và khi mặc cũng lâu, bất tiện trong công việc. Người
dân ở Phúc Sen đa số còn gìn giữ được trang phục truyền thống hơn so với
các dân tộc khác trong tỉnh, nhưng chỉ có phụ nữ già tuổi mới mặc hàng ngày, còn
lại chỉ giữ cho mình 1 - 2 bộ để mặc vào những ngày lễ, tết, ngày hội. Các thế
hệ trẻ họ không quan tâm, nhưng với lớp già chúng tôi lại rất
nhiều trăn trở và lo
lắng".
Minh Phượng