
Ngoài 1 tạ thịt lợn, nhà trai còn phải có 
con lợn quay trong ngày đón dâu. Ảnh minh họa:
Theo phong tục truyền thống của người Tày ở 
Lạng Sơn, nhà trai chuẩn bị cho đám cưới rất tốn kém, khoảng 4 tạ thịt lợn, 
trong đó phải đem sang nhà gái ít nhất 1 tạ, chưa kể bánh dày, gà thiến, rượu 
trắng và tiền.
Cũng như nhiều dân tộc trên đất nước Việt 
Nam, đối với  người Tày, dựng vợ gả chồng cho con là việc hệ trọng, được cả gia 
đình và dòng họ quan tâm. Do đó, đám cưới có rất nhiều nghi thức, quy định khắt 
khe. Qua các nghi thức, chàng rể người Tày phải thể hiện cho nhà gái thấy được 
sự khôn ngoan, tình yêu và thành ý đem đến hạnh phúc cho người phụ nữ của mình. 
Theo phong tục truyền thống của người Tày, hầu hết chi phí trong đám cưới do gia 
đình nhà trai chịu trách nhiệm, nhà gái chỉ mang tính chất hỗ trợ. Để thể hiện 
gia đình mình có thể là chỗ dựa vững chắc cho con dâu, dù khó khăn thế nào, nhà 
trai cũng phải đáp ứng đầy đủ lễ vật mà nhà gái yêu 
cầu.
Ở các bản làng người Tày ngày trước, việc 
dựng vợ gả chồng cho con cái thường mang tính chất “cha mẹ đặt đâu con ngồi 
đấy”, nhưng cũng không ít đám cưới dựa trên tình cảm của đôi trẻ. Sau một thời 
gian đôi trai gái tìm hiểu nhau, gia đình nhà trai sẽ cử đại diện là ông chú, 
ông bá hay 1 già làng có uy tín đến nhà gái dạm hỏi và xin lá số bản mệnh về so 
tuổi với con trai 
mình.
Sau khi biết lá số đôi nam nữ hợp nhau, nhà 
trai sẽ chọn ngày lành tháng tốt, cử một ông mối cùng chú bác trong họ, mang lễ 
vật sang nhà gái làm lễ ăn hỏi. Nhà gái cũng mời những người uy tín trong họ 
đến, thống nhất với nhà trai về lễ vật thách cưới. Theo ông Trần Quốc Huynh, 
người Tày ở thôn Nà Trà, xã Kháng Chiến, huyện Tràng Định, Lạng Sơn, nhà trai 
chuẩn bị cho đám cưới rất tốn kém, khoảng 4 tạ thịt lợn, trong đó phải đem sang 
nhà gái ít nhất 1 tạ, chưa kể bánh dày, gà thiến, rượu trắng và tiền. Ông Trần 
Quốc Huynh cho biết: “Lễ ăn hỏi làm khoảng 3 mâm, nếu nhà khá giả đông anh em 
thì phải làm chục mâm. Hôm đấy toàn bộ các lễ sắm đến để bàn bạc là nhà trai chi 
hết. ngày xưa các cụ còn có 1 con lợn 35kg, 60 cái bánh giày, 2 con gà gia tiên, 
hai chai rượu ,đi mới làm được cái lễ này. Cả họ nhà trai nhà gái tập trung ăn 
cơm. Ăn xong rồi sau đó mới bàn ngày cưới, hồi xưa thì nó thách cưới, nhà gái sẽ 
đưa ra thách với nhà trai ví dụ như thời buổi bây giờ là cứ phải khoảng 25-30 
triệu, ngày xưa, thời bao cấp kia là chỉ có 500 đồng thôi với lại 1 tạ móc hàm 
thịt lợn, gạo bánh, 
rượu”.
Ông Huynh kể, trước kia, tất cả các món 
trong mâm cơm cưới đều chế biến từ thịt lợn. Vì vậy, nhà trai lùa lợn đến nhà 
gái phải đủ1 tạ, không được phép thiếu: “Phải cân đủ đúng 100kg thì mới được, 
thừa thì được nhưng thiếu thì lại phán xét nhau. Một tạ thịt lợn bất  di bất 
dịch kia là để người ta làm cỗ thôi còn đến hôm đi làm rể là bắt buộc phải con 
lợn quay khiêng đi theo. Cái đấy thì không tính trong lễ thách cưới. Không có đủ 
thì người ta không làm đủ mâm, hồi xưa người ta tính chi li lắm chứ, mâm cỗ 8 
người ăn , ví dụ làm khoảng 40 mâm chẳng hạn thì người ta tính rồi, cứ 2,7kg là 
được 1 mâm khoảng 6-7 món gì 
đấy”.
Bà Hoàng Phương Anh ở thôn Tân Lập, xã Mai 
Pha, thành phố Lạng Sơn cho biết, việc chuẩn bị đủ lễ vật đám cưới là chuẩn mực 
đầu tiên để đánh giá thành ý của gia đình nhà trai. Nếu lượng thịt đem đến không 
đủ, nhà trai thường bị họ hàng bạn bè nhà gái dị nghị, bị đánh giá là không chu 
đáo: “Nó đã có lệ như thế, tôi đòi anh chỉ muốn là vui vẻ phấn khởi, anh cứ dư 
anh mang lên. Ví dụ thừa 5,7kg cũng được, nhưng thiếu thì không hay. Tại trước 
khi nhà trai mang cho nhà gái, mình cũng phải kiểm tra cân rồi. Họ hàng đã được 
giao trách nhiêm ấy người ta nói, đánh giá là không giữ lời hứa, ví dụ người ta 
bảo thiếu, anh phải về anh bù lại cho nhà tôi thì phải về lấy. Thể hiện sòng 
phẳng, dứt khoát, đã thống nhất trước sau như một, chứ không phải kì kèo mè nheo 
đâu”.
Lễ vật và yêu cầu khắt khe là vậy, nhưng 
trước đây, khi kinh tế còn khó khăn, không phải gia đình nào cũng lo được 
một lúc ngần ấy lễ vật. Do đó, gia đình có con trai đến tuổi lập gia đình đều 
chuẩn bị thịt lợn cho con bằng hình thức “gửi lợn”. Ông Trần Quốc Huynh giải 
thích: “Hồi xưa cái thời khó khăn là không có gì cho lợn 
ăn, chỉ nuôi cám rau lang không hoặc là chuối thái ra đun sôi rồi đổ vào máng 
cho ăn thôi nên không lớn được. Con lợn nuôi 1 năm chỉ có 50-60kg thì đã gọi là 
chóng lớn rồi. Cho nên mới có tục gửi lợn. Nhà tôi năm tới này chuẩn bị lấy dâu 
sang nhà ông chú hàng xóm, ông bác bên kia đặt vấn đề là nhờ nhà kia nuôi cho 
tôi 1 con lợn. Lúc đấy chưa biết là bao nhiêu kg đâu mà cứ nuôi đến tháng đấy 
thì lấy, bao nhiêu cân cũng 
lấy”.
Tuy nói là “bao nhiêu cũng lấy” nhưng gia 
đình được “gửi lợn” khi đã nhận lời là đã có trách nhiệm phải nuôi bằng 
được một con “lợn cưới” cho nhà 
trai.
Hiện nay, tục gửi lợn trong đám cưới của người Tày ở Lạng 
Sơn không còn được duy trì bởi lễ vật thách cưới không quá nặng nề như trước. Song, tinh thần tương thân, tương ái 
của bà con vẫn được giữ nguyên, thông qua các hình thức hỗ trợ về vật chất, tinh 
thần khác trong cuộc sống thường  
ngày.
Hồng Minh

Ngoài 1 tạ thịt lợn, nhà trai còn phải có 
con lợn quay trong ngày đón dâu. Ảnh minh 
họa:
Theo phong tục truyền thống của người Tày ở 
Lạng Sơn, nhà trai chuẩn bị cho đám cưới rất tốn kém, khoảng 4 tạ thịt lợn, 
trong đó phải đem sang nhà gái ít nhất 1 tạ, chưa kể bánh dày, gà thiến, rượu 
trắng và tiền.
Cũng như nhiều dân tộc trên đất nước Việt 
Nam, đối với  người Tày, dựng vợ gả chồng cho con là việc hệ trọng, được cả gia 
đình và dòng họ quan tâm. Do đó, đám cưới có rất nhiều nghi thức, quy định khắt 
khe. Qua các nghi thức, chàng rể người Tày phải thể hiện cho nhà gái thấy được 
sự khôn ngoan, tình yêu và thành ý đem đến hạnh phúc cho người phụ nữ của mình. 
Theo phong tục truyền thống của người Tày, hầu hết chi phí trong đám cưới do gia 
đình nhà trai chịu trách nhiệm, nhà gái chỉ mang tính chất hỗ trợ. Để thể hiện 
gia đình mình có thể là chỗ dựa vững chắc cho con dâu, dù khó khăn thế nào, nhà 
trai cũng phải đáp ứng đầy đủ lễ vật mà nhà gái yêu 
cầu.
Ở các bản làng người Tày ngày trước, việc 
dựng vợ gả chồng cho con cái thường mang tính chất “cha mẹ đặt đâu con ngồi 
đấy”, nhưng cũng không ít đám cưới dựa trên tình cảm của đôi trẻ. Sau một thời 
gian đôi trai gái tìm hiểu nhau, gia đình nhà trai sẽ cử đại diện là ông chú, 
ông bá hay 1 già làng có uy tín đến nhà gái dạm hỏi và xin lá số bản mệnh về so 
tuổi với con trai 
mình.
Sau khi biết lá số đôi nam nữ hợp nhau, nhà 
trai sẽ chọn ngày lành tháng tốt, cử một ông mối cùng chú bác trong họ, mang lễ 
vật sang nhà gái làm lễ ăn hỏi. Nhà gái cũng mời những người uy tín trong họ 
đến, thống nhất với nhà trai về lễ vật thách cưới. Theo ông Trần Quốc Huynh, 
người Tày ở thôn Nà Trà, xã Kháng Chiến, huyện Tràng Định, Lạng Sơn, nhà trai 
chuẩn bị cho đám cưới rất tốn kém, khoảng 4 tạ thịt lợn, trong đó phải đem sang 
nhà gái ít nhất 1 tạ, chưa kể bánh dày, gà thiến, rượu trắng và tiền. Ông Trần 
Quốc Huynh cho biết: “Lễ ăn hỏi làm khoảng 3 mâm, nếu nhà khá giả đông anh em 
thì phải làm chục mâm. Hôm đấy toàn bộ các lễ sắm đến để bàn bạc là nhà trai chi 
hết. ngày xưa các cụ còn có 1 con lợn 35kg, 60 cái bánh giày, 2 con gà gia tiên, 
hai chai rượu ,đi mới làm được cái lễ này. Cả họ nhà trai nhà gái tập trung ăn 
cơm. Ăn xong rồi sau đó mới bàn ngày cưới, hồi xưa thì nó thách cưới, nhà gái sẽ 
đưa ra thách với nhà trai ví dụ như thời buổi bây giờ là cứ phải khoảng 25-30 
triệu, ngày xưa, thời bao cấp kia là chỉ có 500 đồng thôi với lại 1 tạ móc hàm 
thịt lợn, gạo bánh, 
rượu”.
Ông Huynh kể, trước kia, tất cả các món 
trong mâm cơm cưới đều chế biến từ thịt lợn. Vì vậy, nhà trai lùa lợn đến nhà 
gái phải đủ1 tạ, không được phép thiếu: “Phải cân đủ đúng 100kg thì mới được, 
thừa thì được nhưng thiếu thì lại phán xét nhau. Một tạ thịt lợn bất  di bất 
dịch kia là để người ta làm cỗ thôi còn đến hôm đi làm rể là bắt buộc phải con 
lợn quay khiêng đi theo. Cái đấy thì không tính trong lễ thách cưới. Không có đủ 
thì người ta không làm đủ mâm, hồi xưa người ta tính chi li lắm chứ, mâm cỗ 8 
người ăn , ví dụ làm khoảng 40 mâm chẳng hạn thì người ta tính rồi, cứ 2,7kg là 
được 1 mâm khoảng 6-7 món gì 
đấy”.
Bà Hoàng Phương Anh ở thôn Tân Lập, xã Mai 
Pha, thành phố Lạng Sơn cho biết, việc chuẩn bị đủ lễ vật đám cưới là chuẩn mực 
đầu tiên để đánh giá thành ý của gia đình nhà trai. Nếu lượng thịt đem đến không 
đủ, nhà trai thường bị họ hàng bạn bè nhà gái dị nghị, bị đánh giá là không chu 
đáo: “Nó đã có lệ như thế, tôi đòi anh chỉ muốn là vui vẻ phấn khởi, anh cứ dư 
anh mang lên. Ví dụ thừa 5,7kg cũng được, nhưng thiếu thì không hay. Tại trước 
khi nhà trai mang cho nhà gái, mình cũng phải kiểm tra cân rồi. Họ hàng đã được 
giao trách nhiêm ấy người ta nói, đánh giá là không giữ lời hứa, ví dụ người ta 
bảo thiếu, anh phải về anh bù lại cho nhà tôi thì phải về lấy. Thể hiện sòng 
phẳng, dứt khoát, đã thống nhất trước sau như một, chứ không phải kì kèo mè nheo 
đâu”.
Lễ vật và yêu cầu khắt khe là vậy, nhưng 
trước đây, khi kinh tế còn khó khăn, không phải gia đình nào cũng lo được 
một lúc ngần ấy lễ vật. Do đó, gia đình có con trai đến tuổi lập gia đình đều 
chuẩn bị thịt lợn cho con bằng hình thức “gửi lợn”. Ông Trần Quốc Huynh giải 
thích: “Hồi xưa cái thời khó khăn là không có gì cho lợn 
ăn, chỉ nuôi cám rau lang không hoặc là chuối thái ra đun sôi rồi đổ vào máng 
cho ăn thôi nên không lớn được. Con lợn nuôi 1 năm chỉ có 50-60kg thì đã gọi là 
chóng lớn rồi. Cho nên mới có tục gửi lợn. Nhà tôi năm tới này chuẩn bị lấy dâu 
sang nhà ông chú hàng xóm, ông bác bên kia đặt vấn đề là nhờ nhà kia nuôi cho 
tôi 1 con lợn. Lúc đấy chưa biết là bao nhiêu kg đâu mà cứ nuôi đến tháng đấy 
thì lấy, bao nhiêu cân cũng 
lấy”.
Tuy nói là “bao nhiêu cũng lấy” nhưng gia 
đình được “gửi lợn” khi đã nhận lời là đã có trách nhiệm phải nuôi bằng 
được một con “lợn cưới” cho nhà 
trai.
Hiện nay, tục gửi lợn trong đám cưới của người Tày ở Lạng 
Sơn không còn được duy trì bởi lễ vật thách cưới không quá nặng nề như trước. Song, tinh thần tương thân, tương ái 
của bà con vẫn được giữ nguyên, thông qua các hình thức hỗ trợ về vật chất, tinh 
thần khác trong cuộc sống thường  
ngày.
Hồng Minh





