Hàng thủ công của người Nùng ở Lạng
Sơn
Nhóm sản xuất hàng thủ công của người Nùng bao gồm phụ nữ
thuộc bốn bản Nùng Phàn Slinh ở Lạng Sơn, một tỉnh phía đông bắc Việt
Nam.
Dưới một dự án ( trước kia do Oxfam Hong Kong hỗ trợ), và
giờ đây do Craft Link hỗ trợ, phụ nữ ở đây tạo thêm thu nhập cho gia đình bằng
việc sản xuất các mặt hàng thủ công truyền thống của họ. Dự án đã tổ chức đào
tạo nâng cao kỹ thuật may,
kiểm
tra chất lượng sản phẩm, đồng thời đưa một số thành viên đi học tập, xem xét thị
trường tiêu thụ sản phẩm ở Hà Nội và các nguồn cung cấp nguyên liệu. Thông qua
các hội chợ hàng thủ công của Craft Link, phụ nữ Nùng đã có cơ hội để tự giới
thiệu sản phẩm của mình trên thị trường. Dự án cũng nhằm giúp đỡ những phụ nữ
trẻ tạo thêm thu nhập, chuẩn bị cho cuộc sống gia đình, chăm sóc con cái trong
tương lai. Những phụ nữ này kết hợp sản xuất hàng thủ công vào mùa đông, là mùa
nông nhàn.
Truyền thống và những đổi thay ở vùng dân tộc
Nùng:
Người Nùng Phàn Slinh là một trong số ít các dân tộc
trong vùng còn giữ được truyền thống tự dệt vải và may trang phục theo lối cổ.
Họ tự trồng bông, kéo sợi, dệt vải cũng như trồng chàm để nhuộm vải. Phụ nữ và
nam giới mặc áo cánh và quần vải bông nhuộm chàm. Trong những dịp đặc biệt hoặc
khi đi chợ, các cô gái đội chiếc khăn trắng có những dải đen thêu màu sặc sở làm
cho trang phục trở nên sinh động hơn. Nếu như một số đàn ông Nùng đôi lúc mặc
trang phục của người Kinh ra khỏi bản thì phụ nữ vẫn giữ cách ăn mặc truyền
thống như một phần quan trọng trong lối sống của
mình.
Các bậc cha mẹ khi chọn con dâu thường đánh giá các cô
gái qua trang phục. Theo họ, một cô gái biết may vá giỏi thì cũng sẽ là một
người tốt. Họ cho rằng con gái Nùng mà ăn mặc những loại quần áo có bán sẵn
ngoài chợ là những cô gái lười biếng. Việc hôn nhân của người Nùng do cha mẹ sắp
đặt. Các cô gái Nùng thường lấy chồng khi 18,19 tuổi. Các chàng trai lấy vợ vào
độ tuổi 20. Sau khi tổ chức đám cưới cô dâu vẫn tiếp tục ở lại nhà cha mẹ, thỉnh
thoảng mới sang thăm nhà chồng. Chỉ đến khi sinh đứa con đầu lòng, cô mới chính
thức về nhà
chồng.
Mặc dù hôn nhân phải theo sự sắp đặt nhưng thanh niên nam
nữ Nùng cũng rất “lãng mạn”. Các chàng trai, cô gái tìm bạn tình là chuyện rất
bình thường, ngay cả khi họ đã lập gia đình. Họ thường tỏ tình bằng cách tặng
quà cho nhau và như vậy lại cần đến sự khéo tay của các cô
gái.
Một chàng trai có thể đề nghị một cô gái may áo cho mình.
Nếu có cảm tình với chàng, cô gái sẵn lòng làm giúp mặc dù giả vờ từ chối với lý
do cô rất bận. Những chiếc áo này thường may bằng vải bông trắng, gần đây các cô
gái hay thêu thêm hoa văn nhiều màu sắc. Sau khi tặng áo cho các chàng trai, các
cô gái đề nghị họ tặng quà lại. Nhưng nếu là một cô gái thông minh thì vài tuần
hoặc vài tháng sau cô mới ngỏ lời. Như vậy, họ sẽ có một thời gian dài chờ đợi
đầy ý vị. Món quà mà các cô gái nhận được thường là hai chiếc giỏ tre xinh xắn.
Một chiếc dùng để đựng ống chỉ, chiếc kia đựng bông chuẩn bị kéo thành
sợi..
Các chàng trai, cô gái Nùng thường mặc những bộ trang
phục đẹp nhất khi đi chợ phiên. Các cô gái đội khăn mới, vai đeo túi thêu; còn
các chàng trai hãnh diện mặc những chiếc áo thêu rất
đẹp.
Những mối tình của họ hoàn toàn trong sáng và thường thì
sau khi đã trao và nhận các món quà các cô gái lại thêu áo để tặng các bạn trai
khác. Một cô gái trẻ nói: “ Thêu càng được nhiều áo, có càng nhiều áo thì có
càng nhiều bạn trai”. Cho đến khi sinh đứa con đầu lòng, các cô gái mới ngừng
thêu áo, tặng quà và họ đi chợ phiên chỉ để mua sắm hàng hóa. Lúc này, bổn phận
của người con dâu cùng việc chăm sóc con cái là nhiệm vụ chính của người phụ
nữ.
Mặc dù tập quán kết hôn cũng như những mối quan hệ nam nữ
không thay đổi nhiều theo thời gian nhưng nghệ thuật thêu, dệt của người Nùng
lại liên tục thay đổi do mỗi người phụ nữ có một cách thức riêng để biến đổi các
mẫu trang trí cổ cũng như phát triển các mẫu mới. Trong thời gian gần đây, phụ
nữ Nùng đã có nhiều sáng tạo trong các sản phẩm của họ. Việc mở rộng giao lưu
luôn đi cùng với nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là từ khi có sự
mở của thông thường qua biên giới với Trung Quốc. Họ sử dụng các loại chỉ màu rẻ
tiền có bán rất nhiều trong khoảng thời gian ba năm trở lại đây. Tuy nhiên, họ
vẫn sử dụng những mẫu thêu cổ truyền và sản xuất những mặt hàng mới ngày càng
đẹp hơn.
Sản phẩm của phụ nữ người Nùng trong dự án này được thiết
kế với những mẫu hoa văn đa dạng của dân tộc họ. Mục đích của dự án là khuyến
khích khả năng sáng tạo của phụ nữ và tạo ra nguồn thu nhập cho các hộ gia
đình.
Kỹ thuật nhuộm
chàm:
Phụ nữ Nùng tự trồng cây chàm để chế biến thuốc nhuộm.
Các sản phẩm của người Nùng thường được nhuộm màu đen hoặc màu xanh đậm. Nhuộm
chàm là một công việc hết sức nặng nhọc. Trước tiên người ta ngâm lá chàm vào
nước trong một đêm. Sau đó vắt ra một thứ nước màu xanh lục, khi cho thêm vôi
vào nước sẽ dần dần ngả nâu, bọt tím sẽ nổi trên bề mặt, cuối cùng nước sẽ
chuyển sang màu xanh lam đậm (màu
chàm).
Người ta sẽ thử chất lượng của chàm bằng cách nếm loại
chàm tốt có vị mặn, như vậy lượng vôi trong nước chàm là vừa phải. Nước chàm
được để cho cạn dần trong khoảng ba mươi ngày sau đó sẽ còn lại bột chàm đặc
sánh. Để nhuộm vải màu đen (loại tốt nhất) cách nhuộm cũng khác với loại vải
xanh lam. Người ta dùng một chiếc rổ to đựng tro bếp, có đậy lá bí phía trên.
Chiếc rổ này được đặt trên miệng một chiếc thùng, nước sẽ được đổ lên phía trên
và sẽ nhỏ từ từ vào trong thùng. Sau đó, người ta hòa một bát bột chàm với loại
nước đã lọc và cho thêm lá cây “sau sau” – một loại cây phổ biến ở Việt Nam – có
tác dụng giữ cho vải không bị phai màu. Mỗi ngày, người ta lại cho thêm một bát
bột chàm vào thùng nước trong suốt ba mươi ngày, sau đó thì có thể bắt đầu nhuộm
vải. Muốn nhuộm vải màu đen, người ta cho thêm bùn vào trong rổ tro và thả một
miếng vỏ cây “xanh xi” vào thùng nước chàm. Mảnh vải sẽ được nhúng vào nước chàm
hai lần một ngày và được phơi khô, cứ như vậy trong một tháng. Nếu nhuộm vải màu
xanh thì mất khoảng hai
tuần.
Trong suốt mùa nhuộm vải, bàn tay của phụ nữ Nùng luôn có
màu xanh chàm. Qua đó cũng có thể thấy được đức tính cần cù của
họ.
Duy Thắng
Hàng thủ công của người Nùng ở Lạng
Sơn
Nhóm sản xuất hàng thủ công của người Nùng bao gồm phụ nữ
thuộc bốn bản Nùng Phàn Slinh ở Lạng Sơn, một tỉnh phía đông bắc Việt
Nam.
Dưới một dự án ( trước kia do Oxfam Hong Kong hỗ trợ), và
giờ đây do Craft Link hỗ trợ, phụ nữ ở đây tạo thêm thu nhập cho gia đình bằng
việc sản xuất các mặt hàng thủ công truyền thống của họ. Dự án đã tổ chức đào
tạo nâng cao kỹ thuật may,
kiểm
tra chất lượng sản phẩm, đồng thời đưa một số thành viên đi học tập, xem xét thị
trường tiêu thụ sản phẩm ở Hà Nội và các nguồn cung cấp nguyên liệu. Thông qua
các hội chợ hàng thủ công của Craft Link, phụ nữ Nùng đã có cơ hội để tự giới
thiệu sản phẩm của mình trên thị trường. Dự án cũng nhằm giúp đỡ những phụ nữ
trẻ tạo thêm thu nhập, chuẩn bị cho cuộc sống gia đình, chăm sóc con cái trong
tương lai. Những phụ nữ này kết hợp sản xuất hàng thủ công vào mùa đông, là mùa
nông nhàn.
Truyền thống và những đổi thay ở vùng dân tộc
Nùng:
Người Nùng Phàn Slinh là một trong số ít các dân tộc
trong vùng còn giữ được truyền thống tự dệt vải và may trang phục theo lối cổ.
Họ tự trồng bông, kéo sợi, dệt vải cũng như trồng chàm để nhuộm vải. Phụ nữ và
nam giới mặc áo cánh và quần vải bông nhuộm chàm. Trong những dịp đặc biệt hoặc
khi đi chợ, các cô gái đội chiếc khăn trắng có những dải đen thêu màu sặc sở làm
cho trang phục trở nên sinh động hơn. Nếu như một số đàn ông Nùng đôi lúc mặc
trang phục của người Kinh ra khỏi bản thì phụ nữ vẫn giữ cách ăn mặc truyền
thống như một phần quan trọng trong lối sống của
mình.
Các bậc cha mẹ khi chọn con dâu thường đánh giá các cô
gái qua trang phục. Theo họ, một cô gái biết may vá giỏi thì cũng sẽ là một
người tốt. Họ cho rằng con gái Nùng mà ăn mặc những loại quần áo có bán sẵn
ngoài chợ là những cô gái lười biếng. Việc hôn nhân của người Nùng do cha mẹ sắp
đặt. Các cô gái Nùng thường lấy chồng khi 18,19 tuổi. Các chàng trai lấy vợ vào
độ tuổi 20. Sau khi tổ chức đám cưới cô dâu vẫn tiếp tục ở lại nhà cha mẹ, thỉnh
thoảng mới sang thăm nhà chồng. Chỉ đến khi sinh đứa con đầu lòng, cô mới chính
thức về nhà
chồng.
Mặc dù hôn nhân phải theo sự sắp đặt nhưng thanh niên nam
nữ Nùng cũng rất “lãng mạn”. Các chàng trai, cô gái tìm bạn tình là chuyện rất
bình thường, ngay cả khi họ đã lập gia đình. Họ thường tỏ tình bằng cách tặng
quà cho nhau và như vậy lại cần đến sự khéo tay của các cô
gái.
Một chàng trai có thể đề nghị một cô gái may áo cho mình.
Nếu có cảm tình với chàng, cô gái sẵn lòng làm giúp mặc dù giả vờ từ chối với lý
do cô rất bận. Những chiếc áo này thường may bằng vải bông trắng, gần đây các cô
gái hay thêu thêm hoa văn nhiều màu sắc. Sau khi tặng áo cho các chàng trai, các
cô gái đề nghị họ tặng quà lại. Nhưng nếu là một cô gái thông minh thì vài tuần
hoặc vài tháng sau cô mới ngỏ lời. Như vậy, họ sẽ có một thời gian dài chờ đợi
đầy ý vị. Món quà mà các cô gái nhận được thường là hai chiếc giỏ tre xinh xắn.
Một chiếc dùng để đựng ống chỉ, chiếc kia đựng bông chuẩn bị kéo thành
sợi..
Các chàng trai, cô gái Nùng thường mặc những bộ trang
phục đẹp nhất khi đi chợ phiên. Các cô gái đội khăn mới, vai đeo túi thêu; còn
các chàng trai hãnh diện mặc những chiếc áo thêu rất
đẹp.
Những mối tình của họ hoàn toàn trong sáng và thường thì
sau khi đã trao và nhận các món quà các cô gái lại thêu áo để tặng các bạn trai
khác. Một cô gái trẻ nói: “ Thêu càng được nhiều áo, có càng nhiều áo thì có
càng nhiều bạn trai”. Cho đến khi sinh đứa con đầu lòng, các cô gái mới ngừng
thêu áo, tặng quà và họ đi chợ phiên chỉ để mua sắm hàng hóa. Lúc này, bổn phận
của người con dâu cùng việc chăm sóc con cái là nhiệm vụ chính của người phụ
nữ.
Mặc dù tập quán kết hôn cũng như những mối quan hệ nam nữ
không thay đổi nhiều theo thời gian nhưng nghệ thuật thêu, dệt của người Nùng
lại liên tục thay đổi do mỗi người phụ nữ có một cách thức riêng để biến đổi các
mẫu trang trí cổ cũng như phát triển các mẫu mới. Trong thời gian gần đây, phụ
nữ Nùng đã có nhiều sáng tạo trong các sản phẩm của họ. Việc mở rộng giao lưu
luôn đi cùng với nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là từ khi có sự
mở của thông thường qua biên giới với Trung Quốc. Họ sử dụng các loại chỉ màu rẻ
tiền có bán rất nhiều trong khoảng thời gian ba năm trở lại đây. Tuy nhiên, họ
vẫn sử dụng những mẫu thêu cổ truyền và sản xuất những mặt hàng mới ngày càng
đẹp hơn.
Sản phẩm của phụ nữ người Nùng trong dự án này được thiết
kế với những mẫu hoa văn đa dạng của dân tộc họ. Mục đích của dự án là khuyến
khích khả năng sáng tạo của phụ nữ và tạo ra nguồn thu nhập cho các hộ gia
đình.
Kỹ thuật nhuộm
chàm:
Phụ nữ Nùng tự trồng cây chàm để chế biến thuốc nhuộm.
Các sản phẩm của người Nùng thường được nhuộm màu đen hoặc màu xanh đậm. Nhuộm
chàm là một công việc hết sức nặng nhọc. Trước tiên người ta ngâm lá chàm vào
nước trong một đêm. Sau đó vắt ra một thứ nước màu xanh lục, khi cho thêm vôi
vào nước sẽ dần dần ngả nâu, bọt tím sẽ nổi trên bề mặt, cuối cùng nước sẽ
chuyển sang màu xanh lam đậm (màu
chàm).
Người ta sẽ thử chất lượng của chàm bằng cách nếm loại
chàm tốt có vị mặn, như vậy lượng vôi trong nước chàm là vừa phải. Nước chàm
được để cho cạn dần trong khoảng ba mươi ngày sau đó sẽ còn lại bột chàm đặc
sánh. Để nhuộm vải màu đen (loại tốt nhất) cách nhuộm cũng khác với loại vải
xanh lam. Người ta dùng một chiếc rổ to đựng tro bếp, có đậy lá bí phía trên.
Chiếc rổ này được đặt trên miệng một chiếc thùng, nước sẽ được đổ lên phía trên
và sẽ nhỏ từ từ vào trong thùng. Sau đó, người ta hòa một bát bột chàm với loại
nước đã lọc và cho thêm lá cây “sau sau” – một loại cây phổ biến ở Việt Nam – có
tác dụng giữ cho vải không bị phai màu. Mỗi ngày, người ta lại cho thêm một bát
bột chàm vào thùng nước trong suốt ba mươi ngày, sau đó thì có thể bắt đầu nhuộm
vải. Muốn nhuộm vải màu đen, người ta cho thêm bùn vào trong rổ tro và thả một
miếng vỏ cây “xanh xi” vào thùng nước chàm. Mảnh vải sẽ được nhúng vào nước chàm
hai lần một ngày và được phơi khô, cứ như vậy trong một tháng. Nếu nhuộm vải màu
xanh thì mất khoảng hai
tuần.
Trong suốt mùa nhuộm vải, bàn tay của phụ nữ Nùng luôn có
màu xanh chàm. Qua đó cũng có thể thấy được đức tính cần cù của
họ.
Duy Thắng