
Yên Bái là một tỉnh miền núi Tây Bắc của tổ quốc, với 
nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống như: Kinh, Dao, Tày, Nùng, Cao 
Lan… đã tạo nên một bức tranh văn hóa nhiều màu sắc cho tỉnh Yên Bái nói 
riêng và cho đất nước Việt Nam nói chung. Trong xu hướng hội nhập quốc tế hiện 
nay, xu hướng toàn cầu hóa văn hóa đang đe dọa sự tồn tại những nét văn hóa dân 
tộc độc đáo. Do đó, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc hay những đặc trưng văn 
hóa tộc người mang một ý nghĩa quan trọng, góp phần giữ gìn tính đa dạng và sự 
đa sắc màu của văn hóa quốc gia và văn hóa thế giới. Vì vậy, việc bảo tồn và 
phát huy giá trị văn hóa mỗi dân tộc cũng như của mỗi quốc gia là một vấn đề cấp 
thiết và mang tính chiến lược để phát triển lâu dài cho mỗi địa 
phương cũng như cho mỗi quốc gia.
Với đặc điểm chung là một tỉnh thuộc vùng 
cao còn nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế cũng như mọi mặt đời sống của nhân 
dân, nhưng trong những năm qua cán bộ và nhân dân tỉnh Yên Bái  luôn cố gắng 
phấn đấu làm thay đổi cục diện bộ mặt đời sống của nhân dân ngày một khởi sắc 
hơn trên mọi mặt của đời sống xã hội. Ở Yên Bái, trong số các dân tộc cùng sinh 
sống thì dân tộc Nùng chiếm số lượng khá đông, tập trung chủ yếu ở hai huyện Lục 
Yên và Yên Bình. Qua nghiên cứu của chúng tôi thì đồng bào Nùng sống ở xã Bảo Ái 
thuộc huyện Yên Bình còn mang nhiều yếu tố văn hóa truyền thống đặc sắc trong 
đời sống sinh hoạt của mình. Một trong những nét đặc sắc ấy phải kể đến những 
nghi lễ quanh vòng đời người như: tục lệ liên quan đến trẻ nhỏ và sinh nở, tục 
lệ hôn nhân, tục lệ ma chay và một số tục thờ cúng khác của đồng 
bào.
Giống như một số dân tộc khác, đồng bào 
Nùng ở Bảo Ái sống xen kẽ cùng các dân tộc khác nhưng vẫn giữ gìn được một phần 
văn hóa truyền thống của mình. Trong những phong tục quanh vòng đời người đồng 
bào Nùng có nhiều những luật tục, cách hành lễ và những kiêng kỵ rất đặc 
biệt.
Nói đến những phong tục truyền thống của 
đồng bào Nùng ở Bảo Ái phải kể đến những phong tục liên quan đến trẻ nhỏ. Họ 
quan niệm nuôi dạy một đứa trẻ là cả một trọng trách lớn của cha mẹ, vì đứa trẻ 
là bắt đầu của một cuộc đời con người, chính vì vậy trong việc chăm sóc và nuôi 
dưỡng trẻ nhỏ đồng bào có những tập tục và nghi lễ mà đến nay hầu như vẫn còn 
được gìn giữ. Đồng bào Nùng có tục lệ rất đặc biệt trong quá trình mang thai và 
chăm sóc trẻ nhỏ. Những kiêng kỵ của họ được thực hiện một cách nghiêm túc và tự 
giác từ mỗi cá nhân, gia đình chứ không phải những luật tục bắt buộc mọi người 
tham gia. Tuy vây, vì là những phong tục có từ lâu đời và người dân quan niệm có 
thờ có thiêng, có kiêng có lành nên họ cứ thực hiện phong tục truyền thống từ 
đời này sang đời khác với sụ thành tâm nhất của mình. Khi người phụ nữ mang thai 
họ kiêng không được mang các loại lá cây tươi xanh vào nhà hoặc để dưới gầm sàn 
đề phòng sẩy thai; kiêng không được sửa nhà, sửa giường chiếu, không được làm gì 
tác động mạnh đến giường ngủ của người mang bầu cũng là đề phòng bị sảy thai; 
người có bầu và chồng mình phải kiêng không được giết mổ gia súc, gia cầm (không 
được sát sinh); người mang bầu kiêng không được đi viếng đám tang hoặc có chuyện 
buồn để tránh làm ảnh hưởng không tốt và những chuyện không hay xảy ra với thai 
nhi …
Trong quá trình chăm sóc trẻ nhỏ, đồng bào 
có tục thờ Dá Va (Mẹ Hoa) hay thờ Bà Mụ của người Kinh. Với người Nùng ở Bảo Ái, 
tục thờ Dá Va đã có từ rất lâu đời, Dá Va chính là đại diện cho người trông nom, 
cai quản trẻ em trong mỗi gia đình. Bàn thờ Dá Va của người Nùng được lập khi 
người mẹ mang thai đứa con đầu lòng được 7 tháng, gia đình sẽ làm lễ tạ bà Mẹ 
Hoa, khi ấy nhà ngoại đứa bé sau này sẽ mang sang một bàn thờ nhỏ chính là bàn 
thờ Dá Va. Mỗi gia đình chỉ lập bàn thờ Dá Va một lần và thờ suốt đời, những lần 
sinh con sau chỉ cần cắm thêm một bong hoa bằng giấy lên bàn thờ Dá Va để báo 
với bà về thành viên mới trong gia đình mình mà thôi. Trên bàn thờ của người 
Nùng không bao giờ thiếu bàn thờ Dá Va, được đặt thờ suốt đời chứ không giống 
như tục thờ mẹ Hoa của một số nhánh người Nùng ở nơi khác là chỉ thờ bà Mẹ Hoa 
tới khi đứa trẻ được 13, 14 tuổi. Khi đứa trẻ còn nhỏ (14 tuổi trở xuống), bất 
kể đi đâu xa, người nhà đều rút một chân hương từ bát hương thờ Dá Va mang theo, 
với ngụ ý là bà mẹ Hoa luôn đi theo, che chở và bảo vệ cho đứa bé được bình an. 
Tục lệ thờ Dá Va của đồng bào cho thấy vai trò hết sức quan trọng của lệ tục, 
gắn bó chặt chẽ với quá trình nuôi dưỡng đứa trẻ. Điều này có thể hiểu, khi y 
học và khoa học chưa phát triển như hiện nay, việc nuôi dưỡng trẻ nhỏ cũng như 
những vấn đề liên quan khác khá khó khăn và phức tạp, vị thần đỡ đầu cho trẻ nhỏ 
(bà Mụ) đã được tạo nên làm chỗ dựa tinh thần cho đồng 
bào.
Người Nùng ở Bảo Ái cũng có tục lệ gửi con 
nuôi, đó là khi bố mẹ đẻ cháu bé nhưng cháu bé lại hay ốm đau, chậm lớn… thì họ 
sẽ tìm một người bố mẹ nuôi cho cháu và nếu gia đình bố mẹ nuôi đồng ý họ sẽ làm 
lễ gửi con nuôi. Lúc này hai bên gia đình sẽ coi nhau như một. ngày lễ tết người 
con sẽ phải đi tết bố mẹ nuôi của mình và có trách nhiệm như với gia đình mình. 
Họ sẽ làm lễ cởi gửi khi người con chuẩn bị lập gia đình, cũng có những trường 
hợp họ không làm lễ cởi gửi vì tình cảm hai bên gia đình đã thân thiết và họ 
muốn duy trì mối quan hệ 
đó.
Ngoài những nghi lễ về trẻ nhỏ thì nghi lễ 
trong hôn nhân, người Nùng cũng có nhiều nét độc đáo. Trong quan hệ hôn nhân, 
người Nùng trọng tình nghĩa, ít có sự thay đổi trong hôn nhân. Từ những năm 1990 
trở về trước, nạn tảo hôn ở đây diễn ra khá nhiều và phổ biến, cũng bởi nhận 
thức của nhân dân còn nhiều hạn chế, việc hôn nhân hầu hết đều là do cha mẹ sắp 
đặt. Nhưng trong thời đại ngày nay, khi mà nhân dân, nhất là giới trẻ được học 
hành và tiếp xúc với khoa học hiện đại thì việc hôn nhân đã được để cho đôi trẻ 
tự do tìm hiểu và quyết định. Việc hôn nhân được xem là việc trọng đại của con 
người nên bất kể đám cưới nào của người Nùng cũng được tuân thủ đầy đủ theo các 
trình tự: Buổi gặp gỡ đầu tiên, lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ cưới và lễ lại mặt. Một số 
nghi lễ quan trọng và gần như không thể thiếu trong nghi lễ hôn nhân của người 
Nùng như: việc xem ngày giờ trong hôn nhân phải do thầy Tạo xem và người nhà 
nhất định phải nghe theo nếu muốn tốt cho cuộc sống đôi trẻ và gia đình nên có 
những trường hợp đám cưới bị hoãn tới vài năm vì đợi ngày giờ tốt. Việc thách 
cưới của đồng bào vẫn tồn tại dù cũng đã có nhiều cải tiến không còn trọng về 
vật chất, ngoài ra đồng bào có tục giúp nhau khi gia đình có công việc, điều đó 
thể hiện tinh thần đoàn kết làng xóm. Trong hôn nhân họ giúp nhau con gà, gạo, 
rượu hay tiền tùy theo hoàn cảnh mỗi gia đình, và gia chủ sẽ hoàn trả khi gia 
đình người kia có công việc. Ngày nay, với sự giao lưu giữa các dân tộc với 
nhau, hôn nhân người Nùng cũng được mở rộng hơn với các dân tộc khác và ở những 
nơi khác xa hơn. Đây cũng chính là một trong những lý do làm cho văn hóa truyền 
thống của dân tộc Nùng trong phong tục hôn nhân có nhiều nét thay đổi. bên cạnh 
đó, việc tuyên truyền về giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc chưa được chú 
trọng, cộng với sự hiểu biết còn nhiều hạn chế của người dân đã làm cho văn hóa 
truyền thống bị mai 
một.

Hát Phưn dân tộc Nùng, Yên Bái (Nguồn: sưu 
tầm)
Nằm trong quy luật sinh - lão – bệnh – tử, 
con người ai cũng một lần sinh ra, lớn lên và về cõi vĩnh hằng. Đồng bào quan 
niệm, bên cạnh thế giới của người sống còn tồn tại song song thế giới của người 
chết, giống cuộc sống của người trần thế. Vì vậy, khi gia đình có người vừa qua 
đời, dù nhà có của hay nghèo khó, ở bất kể tầng lớp nào, họ luôn luôn chu đáo 
trong lễ tang người thân với mong mỏi người thân của mình khi sang thế giới bên 
kia sẽ có cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc. Các nghi thức trong tang lễ của người 
Nùng ở Bảo Ái  trải qua rất nhiều bước và được thực hiện nghiêm trang. Trong số 
những tập tục ấy có những những nghi lễ mang  nhiều yếu tố thần bí, chưa được lý 
giải như nghi lế Hám Thản (sang than), lên đồng…  Trong nghi lễ đám tang đồng 
bào cũng có những kiêng kỵ rất khắt khe như:  Kể từ sau lễ nhập quan, mọi sinh 
hoạt trong gia đình có nhiều thay đổi, nhất là trong việc ăn uống như: trong gia 
đình không được ăn bún, hành lá vì họ cho rằng ăn bún và hành lá là ăn tóc người 
chết; Không ăn nội tạng của động vật vì như vậy nghĩa là ăn nội tạng của người 
chết; Không được ăn bầu, bí vì như vậy nghĩa là ăn óc người chết; Không được ăn 
mộc nhĩ vì ăn mộc nhĩ là ăn tai người chết, không được ăn thịt, không được dùng 
đũa khi ăn… Vì vậy, trong đám tang người nhà chỉ ăn sắn hoặc ngô luộc và đậu 
phụ. Việc ăn chay này được thực hiện ngay từ khi trong nhà có người chết, ba 
ngày sau đám tang người nhà làm lễ “ké chai” (bỏ kiêng) và lúc này con cháu 
người chết sẽ được ăn một bữa thịt, sau đó lại ăn kiêng đến ngày thứ bảy thì làm 
lễ “ké chai” lần hai rồi được ăn thịt, những thứ đồ ăn kiêng như trên vẫn tiếp 
tục kiêng cho đến khi mãn tang. Tập tục này hiện nay vẫn được lưu giữ, một số 
nhà do ăn uống quá kiêng khem, không đủ chất lại thương khóc mệt mỏi đã dẫn đến 
có người đột quỵ hoặc suy nhược nặng,… Không những thế, sau khi đưa ma, gia chủ 
còn phải kiêng kỵ một số thứ như: Gia chủ phải nằm đất có rải chiếu hoặc cót (là 
một loại chiếu được đan bằng lạt tre hoặc trúc) trong 40 ngày đêm sau khi đưa 
ma. Đàn ông trong nhà không được cạo râu, cắt tóc khi chưa qua 40 ngày, không 
được sinh hoạt vợ chồng khi chưa qua 100 ngày, không được đi dự đám vui khi chưa 
hết tang… Do cuộc sống ngày càng phát triển nên những nghi thức rườm rà cũng dần 
bị cắt bớt đi cho phù hợp với cuộc sống và chính sách của nhà nước. Tuy vậy, về 
cơ bản những nghi lễ chính của đồng bào vẫn được giữ gìn và thực hành trong đời 
sống hàng 
ngày.
Bên cạnh đó, đồng bào Nùng ở Bảo Ái cũng có 
những phong tục thờ cúng vẫn còn ảnh hưởng rất sâu đậm trong cuộc sống như: thờ 
tổ tiên, thờ tổ sư nghề, thờ thổ công… Những tín ngưỡng thờ cúng này xuất phát 
từ tâm thức của đồng bào về niềm tin vào thánh thần, các lực lượng siêu nhiên 
khi mà con người chưa lý giải được các hiện tượng thiên nhiên trong cuộc sống. 
Tín ngưỡng thờ cúng của đồng bào không hẳn là yếu tố mê tín dị đoan mà đây chỉ 
là một nét văn hóa tồn tại từ ngàn xưa khi con người ta còn sống dựa và phụ 
thuộc vào thiên nhiên và suy nghĩ của đồng bào “có thờ có thiêng, có kiêng có 
lành”. Tín ngưỡng thờ cúng hiện nay vẫn ảnh hưởng khá sâu đậm trong đời sống của 
đồng bào, tạo nên sự khác biệt trong văn hóa của dân tộc Nùng với các dân tộc 
khác.
Trải qua sự  thay đổi của thời gian, cùng 
với sự phát triển của xã hội, những phong tục truyền thống của người Nùng ở Bảo 
Ái cũng bị mai một nhiều. Sự ảnh hưởng của chính sách Nhà nước đã làm thay đổi 
không nhỏ đến việc giữ gìn văn hóa truyền thống của dân tộc. Bởi chính sách 
chồng chéo, hoặc chưa có chính sách riêng cho từng vùng, từng dân tộc nhất định 
nên chưa phát huy được hết hiệu quả. Bên cạnh đó sự hiểu biết và ý thức bảo tồn 
của người dân chưa cao, cùng với sự hời hợt trong công tác quản lý của một số 
cán bộ cơ sở cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa truyền thống của dân 
tộc.
Văn hóa được hình thành cùng với sự phát 
triển của các dân tộc, là một yếu tố cấu thành một quốc gia, vì vậy văn hóa là 
nét đặc trưng cơ bản nhất để phân biệt giữa các quốc gia dân tộc, đồng thời cũng 
là một trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát triển đối với mỗi quốc gia 
dân tộc qua các thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác 
nhau.
Văn hóa Việt Nam là một dòng chảy bất tận, 
nó tạo nên sức mạnh bất diệt của dân tộc ta trong suốt lịch sử dựng nước và giữ 
nước. Các thế hệ người Việt Nam hôm nay đang hòa mình vào dòng chảy văn hóa 
truyền thống của dân tộc và tiếp cận sâu hơn, rộng hơn với những tinh hoa văn 
hóa của nhân loại. Hơn lúc nào hết, chúng ta đang đứng trước những cơ hội, cùng 
những thách thức lớn trong việc gìn giữ và phát triển để nhân lên mạnh, bản lĩnh 
của một nền văn hóa Việt Nam vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân 
tộc.
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, vấn đề bảo tồn và phát 
triển văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc là một vấn đề hết sức quan trọng. Văn 
hóa truyền thống của mỗi dân tộc thể hiện bản sắc và những tinh hoa mà ông cha 
ta gìn giữ qua hàng ngàn năm lịch sử. Đất nước chúng ta có phát triển tốt và bền 
vững hay không, có trở thành một đất nước giàu truyền thống hay không phụ thuộc 
rất nhiều vào thế hệ trẻ tương lai của đất nước trong việc giữ 
gìn văn hóa truyền 
thống.
Dân tộc Nùng là một dân tộc thiểu số mang nhiều nét văn 
hóa đặc sắc, hòa cùng với sự phát triển chung của đất nước trong thời kỳ hội 
nhập, nền văn hóa của người Nùng nói chung và người Nùng ở 
xã Bảo Ái, huyện Yên Bình nói riêng luôn gìn giữ, phát huy những giá trị 
truyền thống tốt đẹp nhằm góp phần làm phong phú nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, 
đậm đà bản sắc dân tộc.
 Hoàng Thị Na

Yên Bái là một tỉnh miền núi Tây Bắc của tổ quốc, với 
nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống như: Kinh, Dao, Tày, Nùng, Cao 
Lan… đã tạo nên một bức tranh văn hóa nhiều màu sắc cho tỉnh Yên Bái nói 
riêng và cho đất nước Việt Nam nói chung. Trong xu hướng hội nhập quốc tế hiện 
nay, xu hướng toàn cầu hóa văn hóa đang đe dọa sự tồn tại những nét văn hóa dân 
tộc độc đáo. Do đó, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc hay những đặc trưng văn 
hóa tộc người mang một ý nghĩa quan trọng, góp phần giữ gìn tính đa dạng và sự 
đa sắc màu của văn hóa quốc gia và văn hóa thế giới. Vì vậy, việc bảo tồn và 
phát huy giá trị văn hóa mỗi dân tộc cũng như của mỗi quốc gia là một vấn đề cấp 
thiết và mang tính chiến lược để phát triển lâu dài cho mỗi địa 
phương cũng như cho mỗi quốc gia.
Với đặc điểm chung là một tỉnh thuộc vùng 
cao còn nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế cũng như mọi mặt đời sống của nhân 
dân, nhưng trong những năm qua cán bộ và nhân dân tỉnh Yên Bái  luôn cố gắng 
phấn đấu làm thay đổi cục diện bộ mặt đời sống của nhân dân ngày một khởi sắc 
hơn trên mọi mặt của đời sống xã hội. Ở Yên Bái, trong số các dân tộc cùng sinh 
sống thì dân tộc Nùng chiếm số lượng khá đông, tập trung chủ yếu ở hai huyện Lục 
Yên và Yên Bình. Qua nghiên cứu của chúng tôi thì đồng bào Nùng sống ở xã Bảo Ái 
thuộc huyện Yên Bình còn mang nhiều yếu tố văn hóa truyền thống đặc sắc trong 
đời sống sinh hoạt của mình. Một trong những nét đặc sắc ấy phải kể đến những 
nghi lễ quanh vòng đời người như: tục lệ liên quan đến trẻ nhỏ và sinh nở, tục 
lệ hôn nhân, tục lệ ma chay và một số tục thờ cúng khác của đồng 
bào.
Giống như một số dân tộc khác, đồng bào 
Nùng ở Bảo Ái sống xen kẽ cùng các dân tộc khác nhưng vẫn giữ gìn được một phần 
văn hóa truyền thống của mình. Trong những phong tục quanh vòng đời người đồng 
bào Nùng có nhiều những luật tục, cách hành lễ và những kiêng kỵ rất đặc 
biệt.
Nói đến những phong tục truyền thống của 
đồng bào Nùng ở Bảo Ái phải kể đến những phong tục liên quan đến trẻ nhỏ. Họ 
quan niệm nuôi dạy một đứa trẻ là cả một trọng trách lớn của cha mẹ, vì đứa trẻ 
là bắt đầu của một cuộc đời con người, chính vì vậy trong việc chăm sóc và nuôi 
dưỡng trẻ nhỏ đồng bào có những tập tục và nghi lễ mà đến nay hầu như vẫn còn 
được gìn giữ. Đồng bào Nùng có tục lệ rất đặc biệt trong quá trình mang thai và 
chăm sóc trẻ nhỏ. Những kiêng kỵ của họ được thực hiện một cách nghiêm túc và tự 
giác từ mỗi cá nhân, gia đình chứ không phải những luật tục bắt buộc mọi người 
tham gia. Tuy vây, vì là những phong tục có từ lâu đời và người dân quan niệm có 
thờ có thiêng, có kiêng có lành nên họ cứ thực hiện phong tục truyền thống từ 
đời này sang đời khác với sụ thành tâm nhất của mình. Khi người phụ nữ mang thai 
họ kiêng không được mang các loại lá cây tươi xanh vào nhà hoặc để dưới gầm sàn 
đề phòng sẩy thai; kiêng không được sửa nhà, sửa giường chiếu, không được làm gì 
tác động mạnh đến giường ngủ của người mang bầu cũng là đề phòng bị sảy thai; 
người có bầu và chồng mình phải kiêng không được giết mổ gia súc, gia cầm (không 
được sát sinh); người mang bầu kiêng không được đi viếng đám tang hoặc có chuyện 
buồn để tránh làm ảnh hưởng không tốt và những chuyện không hay xảy ra với thai 
nhi …
Trong quá trình chăm sóc trẻ nhỏ, đồng bào 
có tục thờ Dá Va (Mẹ Hoa) hay thờ Bà Mụ của người Kinh. Với người Nùng ở Bảo Ái, 
tục thờ Dá Va đã có từ rất lâu đời, Dá Va chính là đại diện cho người trông nom, 
cai quản trẻ em trong mỗi gia đình. Bàn thờ Dá Va của người Nùng được lập khi 
người mẹ mang thai đứa con đầu lòng được 7 tháng, gia đình sẽ làm lễ tạ bà Mẹ 
Hoa, khi ấy nhà ngoại đứa bé sau này sẽ mang sang một bàn thờ nhỏ chính là bàn 
thờ Dá Va. Mỗi gia đình chỉ lập bàn thờ Dá Va một lần và thờ suốt đời, những lần 
sinh con sau chỉ cần cắm thêm một bong hoa bằng giấy lên bàn thờ Dá Va để báo 
với bà về thành viên mới trong gia đình mình mà thôi. Trên bàn thờ của người 
Nùng không bao giờ thiếu bàn thờ Dá Va, được đặt thờ suốt đời chứ không giống 
như tục thờ mẹ Hoa của một số nhánh người Nùng ở nơi khác là chỉ thờ bà Mẹ Hoa 
tới khi đứa trẻ được 13, 14 tuổi. Khi đứa trẻ còn nhỏ (14 tuổi trở xuống), bất 
kể đi đâu xa, người nhà đều rút một chân hương từ bát hương thờ Dá Va mang theo, 
với ngụ ý là bà mẹ Hoa luôn đi theo, che chở và bảo vệ cho đứa bé được bình an. 
Tục lệ thờ Dá Va của đồng bào cho thấy vai trò hết sức quan trọng của lệ tục, 
gắn bó chặt chẽ với quá trình nuôi dưỡng đứa trẻ. Điều này có thể hiểu, khi y 
học và khoa học chưa phát triển như hiện nay, việc nuôi dưỡng trẻ nhỏ cũng như 
những vấn đề liên quan khác khá khó khăn và phức tạp, vị thần đỡ đầu cho trẻ nhỏ 
(bà Mụ) đã được tạo nên làm chỗ dựa tinh thần cho đồng 
bào.
Người Nùng ở Bảo Ái cũng có tục lệ gửi con 
nuôi, đó là khi bố mẹ đẻ cháu bé nhưng cháu bé lại hay ốm đau, chậm lớn… thì họ 
sẽ tìm một người bố mẹ nuôi cho cháu và nếu gia đình bố mẹ nuôi đồng ý họ sẽ làm 
lễ gửi con nuôi. Lúc này hai bên gia đình sẽ coi nhau như một. ngày lễ tết người 
con sẽ phải đi tết bố mẹ nuôi của mình và có trách nhiệm như với gia đình mình. 
Họ sẽ làm lễ cởi gửi khi người con chuẩn bị lập gia đình, cũng có những trường 
hợp họ không làm lễ cởi gửi vì tình cảm hai bên gia đình đã thân thiết và họ 
muốn duy trì mối quan hệ 
đó.
Ngoài những nghi lễ về trẻ nhỏ thì nghi lễ 
trong hôn nhân, người Nùng cũng có nhiều nét độc đáo. Trong quan hệ hôn nhân, 
người Nùng trọng tình nghĩa, ít có sự thay đổi trong hôn nhân. Từ những năm 1990 
trở về trước, nạn tảo hôn ở đây diễn ra khá nhiều và phổ biến, cũng bởi nhận 
thức của nhân dân còn nhiều hạn chế, việc hôn nhân hầu hết đều là do cha mẹ sắp 
đặt. Nhưng trong thời đại ngày nay, khi mà nhân dân, nhất là giới trẻ được học 
hành và tiếp xúc với khoa học hiện đại thì việc hôn nhân đã được để cho đôi trẻ 
tự do tìm hiểu và quyết định. Việc hôn nhân được xem là việc trọng đại của con 
người nên bất kể đám cưới nào của người Nùng cũng được tuân thủ đầy đủ theo các 
trình tự: Buổi gặp gỡ đầu tiên, lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ cưới và lễ lại mặt. Một số 
nghi lễ quan trọng và gần như không thể thiếu trong nghi lễ hôn nhân của người 
Nùng như: việc xem ngày giờ trong hôn nhân phải do thầy Tạo xem và người nhà 
nhất định phải nghe theo nếu muốn tốt cho cuộc sống đôi trẻ và gia đình nên có 
những trường hợp đám cưới bị hoãn tới vài năm vì đợi ngày giờ tốt. Việc thách 
cưới của đồng bào vẫn tồn tại dù cũng đã có nhiều cải tiến không còn trọng về 
vật chất, ngoài ra đồng bào có tục giúp nhau khi gia đình có công việc, điều đó 
thể hiện tinh thần đoàn kết làng xóm. Trong hôn nhân họ giúp nhau con gà, gạo, 
rượu hay tiền tùy theo hoàn cảnh mỗi gia đình, và gia chủ sẽ hoàn trả khi gia 
đình người kia có công việc. Ngày nay, với sự giao lưu giữa các dân tộc với 
nhau, hôn nhân người Nùng cũng được mở rộng hơn với các dân tộc khác và ở những 
nơi khác xa hơn. Đây cũng chính là một trong những lý do làm cho văn hóa truyền 
thống của dân tộc Nùng trong phong tục hôn nhân có nhiều nét thay đổi. bên cạnh 
đó, việc tuyên truyền về giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc chưa được chú 
trọng, cộng với sự hiểu biết còn nhiều hạn chế của người dân đã làm cho văn hóa 
truyền thống bị mai 
một.

Hát Phưn dân tộc Nùng, Yên Bái (Nguồn: sưu 
tầm)
Nằm trong quy luật sinh - lão – bệnh – tử, 
con người ai cũng một lần sinh ra, lớn lên và về cõi vĩnh hằng. Đồng bào quan 
niệm, bên cạnh thế giới của người sống còn tồn tại song song thế giới của người 
chết, giống cuộc sống của người trần thế. Vì vậy, khi gia đình có người vừa qua 
đời, dù nhà có của hay nghèo khó, ở bất kể tầng lớp nào, họ luôn luôn chu đáo 
trong lễ tang người thân với mong mỏi người thân của mình khi sang thế giới bên 
kia sẽ có cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc. Các nghi thức trong tang lễ của người 
Nùng ở Bảo Ái  trải qua rất nhiều bước và được thực hiện nghiêm trang. Trong số 
những tập tục ấy có những những nghi lễ mang  nhiều yếu tố thần bí, chưa được lý 
giải như nghi lế Hám Thản (sang than), lên đồng…  Trong nghi lễ đám tang đồng 
bào cũng có những kiêng kỵ rất khắt khe như:  Kể từ sau lễ nhập quan, mọi sinh 
hoạt trong gia đình có nhiều thay đổi, nhất là trong việc ăn uống như: trong gia 
đình không được ăn bún, hành lá vì họ cho rằng ăn bún và hành lá là ăn tóc người 
chết; Không ăn nội tạng của động vật vì như vậy nghĩa là ăn nội tạng của người 
chết; Không được ăn bầu, bí vì như vậy nghĩa là ăn óc người chết; Không được ăn 
mộc nhĩ vì ăn mộc nhĩ là ăn tai người chết, không được ăn thịt, không được dùng 
đũa khi ăn… Vì vậy, trong đám tang người nhà chỉ ăn sắn hoặc ngô luộc và đậu 
phụ. Việc ăn chay này được thực hiện ngay từ khi trong nhà có người chết, ba 
ngày sau đám tang người nhà làm lễ “ké chai” (bỏ kiêng) và lúc này con cháu 
người chết sẽ được ăn một bữa thịt, sau đó lại ăn kiêng đến ngày thứ bảy thì làm 
lễ “ké chai” lần hai rồi được ăn thịt, những thứ đồ ăn kiêng như trên vẫn tiếp 
tục kiêng cho đến khi mãn tang. Tập tục này hiện nay vẫn được lưu giữ, một số 
nhà do ăn uống quá kiêng khem, không đủ chất lại thương khóc mệt mỏi đã dẫn đến 
có người đột quỵ hoặc suy nhược nặng,… Không những thế, sau khi đưa ma, gia chủ 
còn phải kiêng kỵ một số thứ như: Gia chủ phải nằm đất có rải chiếu hoặc cót (là 
một loại chiếu được đan bằng lạt tre hoặc trúc) trong 40 ngày đêm sau khi đưa 
ma. Đàn ông trong nhà không được cạo râu, cắt tóc khi chưa qua 40 ngày, không 
được sinh hoạt vợ chồng khi chưa qua 100 ngày, không được đi dự đám vui khi chưa 
hết tang… Do cuộc sống ngày càng phát triển nên những nghi thức rườm rà cũng dần 
bị cắt bớt đi cho phù hợp với cuộc sống và chính sách của nhà nước. Tuy vậy, về 
cơ bản những nghi lễ chính của đồng bào vẫn được giữ gìn và thực hành trong đời 
sống hàng 
ngày.
Bên cạnh đó, đồng bào Nùng ở Bảo Ái cũng có 
những phong tục thờ cúng vẫn còn ảnh hưởng rất sâu đậm trong cuộc sống như: thờ 
tổ tiên, thờ tổ sư nghề, thờ thổ công… Những tín ngưỡng thờ cúng này xuất phát 
từ tâm thức của đồng bào về niềm tin vào thánh thần, các lực lượng siêu nhiên 
khi mà con người chưa lý giải được các hiện tượng thiên nhiên trong cuộc sống. 
Tín ngưỡng thờ cúng của đồng bào không hẳn là yếu tố mê tín dị đoan mà đây chỉ 
là một nét văn hóa tồn tại từ ngàn xưa khi con người ta còn sống dựa và phụ 
thuộc vào thiên nhiên và suy nghĩ của đồng bào “có thờ có thiêng, có kiêng có 
lành”. Tín ngưỡng thờ cúng hiện nay vẫn ảnh hưởng khá sâu đậm trong đời sống của 
đồng bào, tạo nên sự khác biệt trong văn hóa của dân tộc Nùng với các dân tộc 
khác.
Trải qua sự  thay đổi của thời gian, cùng 
với sự phát triển của xã hội, những phong tục truyền thống của người Nùng ở Bảo 
Ái cũng bị mai một nhiều. Sự ảnh hưởng của chính sách Nhà nước đã làm thay đổi 
không nhỏ đến việc giữ gìn văn hóa truyền thống của dân tộc. Bởi chính sách 
chồng chéo, hoặc chưa có chính sách riêng cho từng vùng, từng dân tộc nhất định 
nên chưa phát huy được hết hiệu quả. Bên cạnh đó sự hiểu biết và ý thức bảo tồn 
của người dân chưa cao, cùng với sự hời hợt trong công tác quản lý của một số 
cán bộ cơ sở cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa truyền thống của dân 
tộc.
Văn hóa được hình thành cùng với sự phát 
triển của các dân tộc, là một yếu tố cấu thành một quốc gia, vì vậy văn hóa là 
nét đặc trưng cơ bản nhất để phân biệt giữa các quốc gia dân tộc, đồng thời cũng 
là một trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát triển đối với mỗi quốc gia 
dân tộc qua các thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác 
nhau.
Văn hóa Việt Nam là một dòng chảy bất tận, 
nó tạo nên sức mạnh bất diệt của dân tộc ta trong suốt lịch sử dựng nước và giữ 
nước. Các thế hệ người Việt Nam hôm nay đang hòa mình vào dòng chảy văn hóa 
truyền thống của dân tộc và tiếp cận sâu hơn, rộng hơn với những tinh hoa văn 
hóa của nhân loại. Hơn lúc nào hết, chúng ta đang đứng trước những cơ hội, cùng 
những thách thức lớn trong việc gìn giữ và phát triển để nhân lên mạnh, bản lĩnh 
của một nền văn hóa Việt Nam vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân 
tộc.
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, vấn đề bảo tồn và phát 
triển văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc là một vấn đề hết sức quan trọng. Văn 
hóa truyền thống của mỗi dân tộc thể hiện bản sắc và những tinh hoa mà ông cha 
ta gìn giữ qua hàng ngàn năm lịch sử. Đất nước chúng ta có phát triển tốt và bền 
vững hay không, có trở thành một đất nước giàu truyền thống hay không phụ thuộc 
rất nhiều vào thế hệ trẻ tương lai của đất nước trong việc giữ 
gìn văn hóa truyền 
thống.
Dân tộc Nùng là một dân tộc thiểu số mang nhiều nét văn 
hóa đặc sắc, hòa cùng với sự phát triển chung của đất nước trong thời kỳ hội 
nhập, nền văn hóa của người Nùng nói chung và người Nùng ở 
xã Bảo Ái, huyện Yên Bình nói riêng luôn gìn giữ, phát huy những giá trị 
truyền thống tốt đẹp nhằm góp phần làm phong phú nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, 
đậm đà bản sắc dân tộc.
 Hoàng Thị Na





