
Cô dâu và chú rể trong ngày cưới ở xóm Pác 
Rằng, xã Phúc Sen (Quảng Uyên).
Lễ cưới của người Nùng An - Cao Bằng có 
nhiều phong tục tập quán được lưu truyền từ đời trước sang đời sau. Ngày cưới 
được lựa chọn một cách thận trọng do thầy tào, thầy mo xác định. Đám cưới diễn 
ra từ 2 - 3 ngày: Buổi chiều hôm trước tại nhà gái và buổi chiều hôm sau tại nhà 
trai. Hôm trước với nghi thức làm lễ đón dâu, hôm sau với nghi thức nhập 
gia.
 Ngôi nhà sàn của gia đình chủ hôn lễ được 
bắc cầu nối với những ngôi nhà giáp ranh. Nhà qua nhà, sàn nối sàn. Cỗ cưới bày 
trên các mành chiếu cót, đều do đôi tay của những người thợ rèn cứng cỏi, khô 
ráp, pha chế xào nấu. Ngoài các món chính là rau, thịt... như các cỗ cưới khác, 
ở đây các mâm còn có chục trứng gà luộc, là món khai vị đón khách. Tò mò tìm 
hiểu nguyên do, cuối cùng tôi nhận được lời giải thích vô cùng bình dị:“Đã là 
trứng thì ắt sẽ nở... cầu mong cho đôi vợ chồng trẻ thôi 
mà!”.
Người đến dự đám cưới, từ người cao tuổi 
cho đến trẻ em đều vận trên mình bộ trang phục của người Nùng An, do bà con tự 
làm, từ se sợi đến nhuộm chàm và khâu thêu thành quần 
áo.
Cô dâu và chú rể sính trên mình trang phục 
truyền thống của dân tộc. Đi bên nhau nâng ly rượu hồng mời khách. Không cần đến 
những họa tiết cầu kỳ, cô dâu Nùng vẫn nổi bật bởi chiếc khăn được kết với mái 
tóc thật duyên dáng. Được biết, quần áo hôn lễ là kỷ vật thiêng liêng của cha mẹ 
làm tặng con, mong muốn con cháu lưu truyền gìn giữ, từ thế hệ này qua thế hệ 
khác.
Những người lớn tuổi trong làng cho biết, 
ngày cưới được lựa chọn một cách thận trọng do thầy tào, thầy mo xác định, 
thường là ngày có phúc cho nhà trai, có lộc cho đôi vợ chồng trẻ. Đám cưới diễn 
ra từ 2 - 3 ngày: Buổi chiều hôm trước tại nhà gái và buổi chiều hôm sau tại nhà 
trai. Hôm trước với nghi thức làm lễ đón dâu, hôm sau với nghi thức nhập 
gia.
Thành phần đoàn đón dâu gồm: Ông mối, chú 
rể, phù rể cùng hai cô đón và những người mang đồ sính lễ. Từ nhà trai đi ra, 
các thành viên trong đoàn không được giẫm lên bậc cửa chính. Đến nhà gái, sau 
khi uống nước xong là thủ tục lễ trình tổ tiên. Một nghi lễ rất quan trọng trong 
phong tục của người Nùng An, cho dù lễ tiết ở các địa phương có phần khác nhau 
đôi chút. Trước khi cô gái xuất gia, theo tục lệ của người Nùng phải làm lễ 
“tách ma” (xuất gia) cho con gái về nhà chồng. Ông mối lại thắp hương lên bàn 
thờ tổ tiên để xin phép được đón dâu. Đến giờ đẹp, đoàn đưa dâu làm lễ ra 
cửa.
Người Nùng An có tục khi đoàn đưa dâu ra 
khỏi bản được một quãng đường thì “Tả slưng” (ông cậu) bắt đầu khởi hành đi 
theo, mang theo hai bó hương để thắp trên đường đi từ nhà cháu gái đến nhà cháu 
rể với ý nghĩa là cầu mong các thiên thần, ma quỷ không làm trắc trở cho đoàn 
đưa đón 
dâu.
Trên đường về nhà trai, đoàn đưa, đón dâu 
phải tuân thủ một số kiêng kỵ và nhiều nghi lễ như: khi đi qua cầu, sông, suối 
phải bỏ một số tiền xuống nước. Đi qua chỗ linh thiêng như miếu thờ, rừng cấm, 
đèo Phựt... cô dâu che ô lên đầu. Trước khi vào nhà trai, người ta làm lễ “cải 
sát” cho cô dâu, với ý nghĩa xua đuổi các tà ma bám theo cô trên đường về nhà 
chồng.
Đến giờ đã định, “Tai sống” (người dẫn dâu) 
đưa cô dâu ra làm lễ bái tổ. Cô dâu quỳ trước bàn thờ để ông mối kính báo với tổ 
tiên và mong được công nhận là thành viên mới của gia đình. Nhưng đến chiều tối, 
cô dâu vẫn trở về nhà mình, để 3 ngày sau mới quay trở lại chính thức sinh hoạt 
tại gia đình 
chồng.
Trên giường ngủ của đôi tân hôn, người ta 
lấy chiếc chiếu đem từ nhà cô dâu ra trải và thầy mo, bà then khấn niệm thần chú 
lên đó để đôi vợ chồng trẻ “không rời nhau được”. Trong buồng bao giờ cũng có 
ngọn đèn dầu và thắp mãi cho đến khi tự tắt mới thôi. Đây là lễ tơ hồng không 
thể thiếu trong đám cưới của người 
Nùng.
Cuốn hút bởi những câu chuyện về phong tục 
tập quán trong lễ cưới của người Nùng An, cùng với những chén rượu vơi đầy của 
bà con dân tộc trong tiếng lày cỏ của đám thanh niên và những lời chúc mừng hạnh 
phúc. Vẫn chưa tàn cuộc, sàn nối sàn, cùng cất lên những làn điệu gắn bó từ: 
Sli, Nàng ới đều được các bà, các cô, các ông nối lời đối 
đáp;
    Thương nhau nước đựng sành không 
chảy
    Không thương nhau nước đựng chậu cũng 
trôi
    Yêu nhau giấy bọc lửa không 
cháy....
Ngày cưới của một gia đình, nhưng là ngày 
hội của cả bản làng nơi 
đây.
Phương Mai

Cô dâu và chú rể trong ngày cưới ở xóm Pác 
Rằng, xã Phúc Sen (Quảng 
Uyên).
Lễ cưới của người Nùng An - Cao Bằng có 
nhiều phong tục tập quán được lưu truyền từ đời trước sang đời sau. Ngày cưới 
được lựa chọn một cách thận trọng do thầy tào, thầy mo xác định. Đám cưới diễn 
ra từ 2 - 3 ngày: Buổi chiều hôm trước tại nhà gái và buổi chiều hôm sau tại nhà 
trai. Hôm trước với nghi thức làm lễ đón dâu, hôm sau với nghi thức nhập 
gia.
 Ngôi nhà sàn của gia đình chủ hôn lễ được 
bắc cầu nối với những ngôi nhà giáp ranh. Nhà qua nhà, sàn nối sàn. Cỗ cưới bày 
trên các mành chiếu cót, đều do đôi tay của những người thợ rèn cứng cỏi, khô 
ráp, pha chế xào nấu. Ngoài các món chính là rau, thịt... như các cỗ cưới khác, 
ở đây các mâm còn có chục trứng gà luộc, là món khai vị đón khách. Tò mò tìm 
hiểu nguyên do, cuối cùng tôi nhận được lời giải thích vô cùng bình dị:“Đã là 
trứng thì ắt sẽ nở... cầu mong cho đôi vợ chồng trẻ thôi 
mà!”.
Người đến dự đám cưới, từ người cao tuổi 
cho đến trẻ em đều vận trên mình bộ trang phục của người Nùng An, do bà con tự 
làm, từ se sợi đến nhuộm chàm và khâu thêu thành quần 
áo.
Cô dâu và chú rể sính trên mình trang phục 
truyền thống của dân tộc. Đi bên nhau nâng ly rượu hồng mời khách. Không cần đến 
những họa tiết cầu kỳ, cô dâu Nùng vẫn nổi bật bởi chiếc khăn được kết với mái 
tóc thật duyên dáng. Được biết, quần áo hôn lễ là kỷ vật thiêng liêng của cha mẹ 
làm tặng con, mong muốn con cháu lưu truyền gìn giữ, từ thế hệ này qua thế hệ 
khác.
Những người lớn tuổi trong làng cho biết, 
ngày cưới được lựa chọn một cách thận trọng do thầy tào, thầy mo xác định, 
thường là ngày có phúc cho nhà trai, có lộc cho đôi vợ chồng trẻ. Đám cưới diễn 
ra từ 2 - 3 ngày: Buổi chiều hôm trước tại nhà gái và buổi chiều hôm sau tại nhà 
trai. Hôm trước với nghi thức làm lễ đón dâu, hôm sau với nghi thức nhập 
gia.
Thành phần đoàn đón dâu gồm: Ông mối, chú 
rể, phù rể cùng hai cô đón và những người mang đồ sính lễ. Từ nhà trai đi ra, 
các thành viên trong đoàn không được giẫm lên bậc cửa chính. Đến nhà gái, sau 
khi uống nước xong là thủ tục lễ trình tổ tiên. Một nghi lễ rất quan trọng trong 
phong tục của người Nùng An, cho dù lễ tiết ở các địa phương có phần khác nhau 
đôi chút. Trước khi cô gái xuất gia, theo tục lệ của người Nùng phải làm lễ 
“tách ma” (xuất gia) cho con gái về nhà chồng. Ông mối lại thắp hương lên bàn 
thờ tổ tiên để xin phép được đón dâu. Đến giờ đẹp, đoàn đưa dâu làm lễ ra 
cửa.
Người Nùng An có tục khi đoàn đưa dâu ra 
khỏi bản được một quãng đường thì “Tả slưng” (ông cậu) bắt đầu khởi hành đi 
theo, mang theo hai bó hương để thắp trên đường đi từ nhà cháu gái đến nhà cháu 
rể với ý nghĩa là cầu mong các thiên thần, ma quỷ không làm trắc trở cho đoàn 
đưa đón 
dâu.
Trên đường về nhà trai, đoàn đưa, đón dâu 
phải tuân thủ một số kiêng kỵ và nhiều nghi lễ như: khi đi qua cầu, sông, suối 
phải bỏ một số tiền xuống nước. Đi qua chỗ linh thiêng như miếu thờ, rừng cấm, 
đèo Phựt... cô dâu che ô lên đầu. Trước khi vào nhà trai, người ta làm lễ “cải 
sát” cho cô dâu, với ý nghĩa xua đuổi các tà ma bám theo cô trên đường về nhà 
chồng.
Đến giờ đã định, “Tai sống” (người dẫn dâu) 
đưa cô dâu ra làm lễ bái tổ. Cô dâu quỳ trước bàn thờ để ông mối kính báo với tổ 
tiên và mong được công nhận là thành viên mới của gia đình. Nhưng đến chiều tối, 
cô dâu vẫn trở về nhà mình, để 3 ngày sau mới quay trở lại chính thức sinh hoạt 
tại gia đình 
chồng.
Trên giường ngủ của đôi tân hôn, người ta 
lấy chiếc chiếu đem từ nhà cô dâu ra trải và thầy mo, bà then khấn niệm thần chú 
lên đó để đôi vợ chồng trẻ “không rời nhau được”. Trong buồng bao giờ cũng có 
ngọn đèn dầu và thắp mãi cho đến khi tự tắt mới thôi. Đây là lễ tơ hồng không 
thể thiếu trong đám cưới của người 
Nùng.
Cuốn hút bởi những câu chuyện về phong tục 
tập quán trong lễ cưới của người Nùng An, cùng với những chén rượu vơi đầy của 
bà con dân tộc trong tiếng lày cỏ của đám thanh niên và những lời chúc mừng hạnh 
phúc. Vẫn chưa tàn cuộc, sàn nối sàn, cùng cất lên những làn điệu gắn bó từ: 
Sli, Nàng ới đều được các bà, các cô, các ông nối lời đối 
đáp;
    Thương nhau nước đựng sành không 
chảy
    Không thương nhau nước đựng chậu cũng 
trôi
    Yêu nhau giấy bọc lửa không 
cháy....
Ngày cưới của một gia đình, nhưng là ngày 
hội của cả bản làng nơi 
đây.
Phương Mai





