
Có thể nói trang phục các dân tộc thiểu số Việt Nam là 
một bức tranh đa dạng về màu sắc. Nếu như những chàng trai cô gái người Mông, 
Dao nổi bật trong các trang phục rực rỡ về màu sắc, cầu kì về chi tiết thì trang 
phục của người Nùng An lại hết sức giản dị và chân phương.
Trong truyền thống văn hoá vật chất của 
người Nùng An ở Phúc Sen, điều đáng lưu ý là sự giữ gìn, bảo lưu bộ trang phục 
dân tộc truyền thống.
Giống 
như trang phục của người Tày, trang phục của người Nùng An rất giản dị, được cắt 
may từ loại vải chàm do tự tay họ làm nên. Điều đáng nói là hiện nay người dân 
Phya Chang không thường xuyên mặc những bộ trang phục truyền thống của dân tộc 
mình. Họ chỉ mặc trang phục truyền thống trong những ngày lễ, tết hay khi đi 
làm.
Những ngày đi học hay lên chợ huyện, mọi 
người thường mặc trang phục giống người Kinh. Khi nhóm chúng tôi có dịp tiếp xúc 
với người dân trong bản thì được nghe mọi người kể lại rằng: Hiện nay, do nhiều 
yếu tố khách quan và chủ quan mà hầu như nhiều người Nùng không còn thường xuyên 
mặc những bộ trang phục truyền thống như trước kia nữa. Đặc biệt là những thanh 
niên, học sinh hay những trẻ nhỏ. Chỉ có những người già là còn lưu lại nét bản 
sắc của dân tộc mình về trang 
phục.
Trang phục truyền thống của người Nùng An 
có sự phân biệt theo lứa tuổi và giới tính, rất phong phú về chủng loại. Trang 
phục nam gồm có áo, quần, thắt lưng, khăn đội đầu, túi vải thêu, đồ trang sức 
bằng bạc… Quần áo trẻ em cũng có sự khác biệt so với các nhóm Nùng khác. Nét 
khác biệt đó thể hiện ở áo, quần, mũ độ đầu. Trong đó chiếc mũ được trang trí 
khá cầu kì với những hoa văn, họa tiết sặc sỡ, đẹp 
mắt…
Khi đứa trẻ mới lọt lòng, người ta quấn nó 
bằng quấn áo cũ củ bố mẹ. Điều này được giải thích là, theo quan niệm của người 
Nùng An, trẻ con mới sinh ra không nên cho mặc đồ mới, lớn lên chúng sẽ đua đòi, 
và quần áo cũ thì vải đã mềm, thoáng, rất tốt cho trẻ nhỏ. Khi đứa trẻ được một, 
hai tuổi người ta cắt quần áo đơn giản theo một kiểu chung không phân biệt nam 
hay nữ. Đến lúc chúng lên 9-10 tuổi, người mẹ bắt đầu cắt may quần áo nhằm phân 
biệt nam nữ cho con. Độ tuổi này các bé gái bắt đầu mặc quần áo và quấn đầu đội 
khăn như người 
lớn.

Một nét không thể thiếu trong trang phục 
người Nùng An là đồ trang sức. Trang sức của người Nùng An chủ yếu bằng bạc 
trắng, Nam giới thường đeo vòng tay bằng bạc, nhẫn bạc, phụ nữ đeo khuyên tai, 
kiềng cổ, vòng tay, nhẫn và đeo bộ xà tích ở ngang lưng. Theo quan niệm của họ 
thì bạc trắng không chỉ tôn thêm vẻ đẹp của con người, kết hợp với việc phô 
trương sự giàu có mà còn có ý nghĩa bảo vệ sức khỏe cho 
họ.
Khi nhìn đồ trang sức bằng bạc, người ta có 
thể đoán biết được sức khỏe của người đeo nó: Nếu là người khỏe mạnh thì đồ 
trang sức luôn sáng, trắng, ngược lại nếu đang yếu, mệt hay có bệnh thì bạc sẽ 
bị thâm lại, màu xỉn, không sáng trắng như lúc đầu nữa. Chính vì thế mà khi 
người nào bị ốm hay cảm thì người ta vẫn thường dùng đồng bạc trắng để đánh gió. 
Quan niệm này không chỉ có ở người Nùng mà còn ở hầu hết các dân tộc khác, trong 
đó không thể không nhắc đến là dân tộc 
Kinh.
Phương thức dệt của  người Nùng 
An
Ban đầu, người ta trồng bông làm nguyên 
liệu để dệt vải. Sau đó sợi bông được đem vào khung dệt, qua đôi bàn tay khéo 
léo của người phụ nữ chúng trở thành những tấm vải bền và chắc. Quy trình dệt 
diễn ra hết sức cẩn thận bởi nếu không chú ý thì có thể làm đứt sợi, khi đó sẽ 
ảnh hưởng đến chất lượng vải. Trung bình một ngày người phụ nữ có thể dệt được 
từ 8-10 tấm vải, tùy theo mức độ công việc lúc nông nhàn là nhiều hay ít. Nếu 
gia đình nào chỉ dệt vải để mặc thì có thể dệt với số lượng ít hơn, vì họ chỉ 
dệt khi nào thực sự rảnh 
rỗi.
Sau khi vải được dệt xong, công đoạn tiếp theo cũng không 
kém phần quan trọng là nhuộm vải. Người Nùng có truyền thống nhuộm 
vải bằng lá chàm. Để vải có màu xanh chàm (xanh thẫm), người nhuộm phải hết sức 
chú ý để làm sao cho màu lá luôn đều màu, không quá đậm mà cũng không quá nhạt. 
Những người già ở đây cho biết, sở dĩ người Nùng chọn màu chàm làm màu áo cho 
trang phục truyền thống dân tộc mình vì như thế khi đi làm sẽ thuận tiện hơn rất 
nhiều, không bị 
bẩn.
Khi phơi vải, không nên để vào lúc nắng quá 
to, vì như thế dễ làm cho màu vải bị phai. Cuối cùng, họ tự may thành những bộ 
quần áo sao cho vừa vặn với người mặc. Toàn bộ những công đoạn này đều do người 
phụ nữ thực hiện, bởi đây là công việc đòi hỏi sự khéo léo, chuyên tâm và cẩn 
thận của đôi bàn tay người phụ 
nữ.
Ngày nay, tuy người Nùng An không phải ai 
cũng còn mặc thường xuyên trang phục truyền thống hằng ngày nữa nhưng chúng vẫn 
được cất giữ cẩn thận dùng để mặc khi họ muốn hoặc có thể đem giới thiệu cho 
khách đến tham quan du lịch hay những nhà nghiên cứu văn hóa dân 
tộc.
Tuệ Minh
Có thể nói trang phục các dân tộc thiểu số Việt Nam là 
một bức tranh đa dạng về màu sắc. Nếu như những chàng trai cô gái người Mông, 
Dao nổi bật trong các trang phục rực rỡ về màu sắc, cầu kì về chi tiết thì trang 
phục của người Nùng An lại hết sức giản dị và chân phương.
Trong truyền thống văn hoá vật chất của 
người Nùng An ở Phúc Sen, điều đáng lưu ý là sự giữ gìn, bảo lưu bộ trang phục 
dân tộc truyền thống.
Giống 
như trang phục của người Tày, trang phục của người Nùng An rất giản dị, được cắt 
may từ loại vải chàm do tự tay họ làm nên. Điều đáng nói là hiện nay người dân 
Phya Chang không thường xuyên mặc những bộ trang phục truyền thống của dân tộc 
mình. Họ chỉ mặc trang phục truyền thống trong những ngày lễ, tết hay khi đi 
làm.
Những ngày đi học hay lên chợ huyện, mọi 
người thường mặc trang phục giống người Kinh. Khi nhóm chúng tôi có dịp tiếp xúc 
với người dân trong bản thì được nghe mọi người kể lại rằng: Hiện nay, do nhiều 
yếu tố khách quan và chủ quan mà hầu như nhiều người Nùng không còn thường xuyên 
mặc những bộ trang phục truyền thống như trước kia nữa. Đặc biệt là những thanh 
niên, học sinh hay những trẻ nhỏ. Chỉ có những người già là còn lưu lại nét bản 
sắc của dân tộc mình về trang 
phục.
Trang phục truyền thống của người Nùng An 
có sự phân biệt theo lứa tuổi và giới tính, rất phong phú về chủng loại. Trang 
phục nam gồm có áo, quần, thắt lưng, khăn đội đầu, túi vải thêu, đồ trang sức 
bằng bạc… Quần áo trẻ em cũng có sự khác biệt so với các nhóm Nùng khác. Nét 
khác biệt đó thể hiện ở áo, quần, mũ độ đầu. Trong đó chiếc mũ được trang trí 
khá cầu kì với những hoa văn, họa tiết sặc sỡ, đẹp 
mắt…
Khi đứa trẻ mới lọt lòng, người ta quấn nó 
bằng quấn áo cũ củ bố mẹ. Điều này được giải thích là, theo quan niệm của người 
Nùng An, trẻ con mới sinh ra không nên cho mặc đồ mới, lớn lên chúng sẽ đua đòi, 
và quần áo cũ thì vải đã mềm, thoáng, rất tốt cho trẻ nhỏ. Khi đứa trẻ được một, 
hai tuổi người ta cắt quần áo đơn giản theo một kiểu chung không phân biệt nam 
hay nữ. Đến lúc chúng lên 9-10 tuổi, người mẹ bắt đầu cắt may quần áo nhằm phân 
biệt nam nữ cho con. Độ tuổi này các bé gái bắt đầu mặc quần áo và quấn đầu đội 
khăn như người 
lớn.

Một nét không thể thiếu trong trang phục 
người Nùng An là đồ trang sức. Trang sức của người Nùng An chủ yếu bằng bạc 
trắng, Nam giới thường đeo vòng tay bằng bạc, nhẫn bạc, phụ nữ đeo khuyên tai, 
kiềng cổ, vòng tay, nhẫn và đeo bộ xà tích ở ngang lưng. Theo quan niệm của họ 
thì bạc trắng không chỉ tôn thêm vẻ đẹp của con người, kết hợp với việc phô 
trương sự giàu có mà còn có ý nghĩa bảo vệ sức khỏe cho 
họ.
Khi nhìn đồ trang sức bằng bạc, người ta có 
thể đoán biết được sức khỏe của người đeo nó: Nếu là người khỏe mạnh thì đồ 
trang sức luôn sáng, trắng, ngược lại nếu đang yếu, mệt hay có bệnh thì bạc sẽ 
bị thâm lại, màu xỉn, không sáng trắng như lúc đầu nữa. Chính vì thế mà khi 
người nào bị ốm hay cảm thì người ta vẫn thường dùng đồng bạc trắng để đánh gió. 
Quan niệm này không chỉ có ở người Nùng mà còn ở hầu hết các dân tộc khác, trong 
đó không thể không nhắc đến là dân tộc 
Kinh.
Phương thức dệt của  người Nùng 
An
Ban đầu, người ta trồng bông làm nguyên 
liệu để dệt vải. Sau đó sợi bông được đem vào khung dệt, qua đôi bàn tay khéo 
léo của người phụ nữ chúng trở thành những tấm vải bền và chắc. Quy trình dệt 
diễn ra hết sức cẩn thận bởi nếu không chú ý thì có thể làm đứt sợi, khi đó sẽ 
ảnh hưởng đến chất lượng vải. Trung bình một ngày người phụ nữ có thể dệt được 
từ 8-10 tấm vải, tùy theo mức độ công việc lúc nông nhàn là nhiều hay ít. Nếu 
gia đình nào chỉ dệt vải để mặc thì có thể dệt với số lượng ít hơn, vì họ chỉ 
dệt khi nào thực sự rảnh 
rỗi.
Sau khi vải được dệt xong, công đoạn tiếp theo cũng không 
kém phần quan trọng là nhuộm vải. Người Nùng có truyền thống nhuộm 
vải bằng lá chàm. Để vải có màu xanh chàm (xanh thẫm), người nhuộm phải hết sức 
chú ý để làm sao cho màu lá luôn đều màu, không quá đậm mà cũng không quá nhạt. 
Những người già ở đây cho biết, sở dĩ người Nùng chọn màu chàm làm màu áo cho 
trang phục truyền thống dân tộc mình vì như thế khi đi làm sẽ thuận tiện hơn rất 
nhiều, không bị 
bẩn.
Khi phơi vải, không nên để vào lúc nắng quá 
to, vì như thế dễ làm cho màu vải bị phai. Cuối cùng, họ tự may thành những bộ 
quần áo sao cho vừa vặn với người mặc. Toàn bộ những công đoạn này đều do người 
phụ nữ thực hiện, bởi đây là công việc đòi hỏi sự khéo léo, chuyên tâm và cẩn 
thận của đôi bàn tay người phụ 
nữ.
Ngày nay, tuy người Nùng An không phải ai 
cũng còn mặc thường xuyên trang phục truyền thống hằng ngày nữa nhưng chúng vẫn 
được cất giữ cẩn thận dùng để mặc khi họ muốn hoặc có thể đem giới thiệu cho 
khách đến tham quan du lịch hay những nhà nghiên cứu văn hóa dân 
tộc.
Tuệ Minh





