This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

NÉT ĐẶC SẮC TRONG ĐÁM CƯỚI NGƯỜI TÀY(Hoàng Minh Thắng)

Hà Giang là một tỉnh miền núi có khá nhiều dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, La Chí, PuPéo, Pàthẻn… Chính bởi sự quần cư của nhiều dân tộc trên cùng một mảnh đất đã tạo cho nền văn hóa Hà Giang những nét văn hóa độc đáo.

Cùng góp chung trong nền văn hóa phong phú đó, phải kể tới dân tộc Tày ở Hà Giang có trên 130.000 người, đứng thứ hai sau người Mông tập trung ở Bắc Quang, Bắc Mè, Vị Xuyên, Xín Mần, Hoàng Su Fìn… Nét đẹp trong văn hóa người Tày là những lễ hội mang tính cộng đồng như cầu mùa, cúng các thần linh là tục kết bạn, người Tày gọi là Hét tòng và đặc biệt là đám cưới của người Tày với những nét văn hóa khá độc đáo.

Có dịp về Hà Giang, thăm bản người Tày, chúng tôi cũng muốn được tham dự, tìm hiểu những sinh hoạt văn hóa của tộc người này. Nhưng để tìm những đám cưới nguyên sơ theo đúng nghi thức cũ thì không còn nhiều. Vì do sự giao lưu kinh tế và hội nhập văn hóa miền xuôi, đám cưới ngày nay đã được đơn giản hóa theo nếp sống văn hóa mới. Nhưng cũng thật may ở Vị Xuyên, một trong những huyện ở Hà Giang vẫn còn giữ lại những nét văn hóa cũ trong đám cưới. Vì là ngày vui trọng đại của gia đình, nên công việc nấu nướng do nữ đảm nhiệm được chuẩn bị từ sáng sớm. Nhà trai cũng vậy chọn được giờ đẹp là khởi hành mang theo lễ vật đến đón dâu. Muốn đón được cô dâu về nhà chồng ngoài những lễ vật quy ước như xôi, bánh dày, gà, cau, còn phải có một số đồ lễ để cúng thổ công và gia tiên nhà cô dâu. Đồ lễ đều phải sơn màu đỏ, hoặc tết dây đỏ tượng trưng cho sự son sắc. Đặc biệt, tục chăng dây của người Tày với sợi dây màu đỏ tuy giống một số dân tộc khác nhưng sự khác biệt của nó lại là sự diễn xuất của lối hát quan làng.

Trong đám cưới, vai trò của ông mối mà người ta gọi là quan làng gồm 2 người vô cùng quan trọng. Họ phải biết hát đối đáp bên nhà gái để có thể tháo được sợi dây đỏ, mà người Tày cho rằng đó là biểu hiện những thách thức khó khăn mà nhà gái đã nuôi dưỡng cô dâu cho đến trưởng thành.Hôm nay ngày lành tháng tốt,

Đoàn nhà trai chúng tôi chẳng ngại khó khăn.
Công dưỡng dục sinh thành cô dâu,
Chúng tôi xin tỏ lòng thành kính.
…Biết nhà trai đến đây chúng tôi căng sợi dây đó
Có thành quả nào mà không phải có khó khăn
Nếu tình cảm chân thành
Sẽ đưa các anh qua hàng rào có sợi dây đỏ.

Vượt qua sợi dây đỏ, các quan làng của họ nhà trai phải hát đối đáp cùng bên nhà gái theo lối hát vừa cổ truyền (tức là theo cách các cụ truyền lại, ngoài ra có thể ứng tác theo văn cảnh). Trước khi đoàn nhà trai được lên nhà, người Tày còn phải làm một nhập tục đầy ý nghĩa, ở đây ông quan làng phải dâng cho thầy cúng gồm một mâm có gạo, tiền… và một chiếc áo của chú rể, để thầy cúng trình cho thổ công, thổ địa của gia đình biết rằng giờ chú rể đã là con trong nhà. Và chiếc áo là vật nhận dạng, nếu không có nghi lễ này, chú rể sẽ khó được gia đình nhà gái chấp nhận.

Lễ cúng được thực hiện xong, đoàn nhà trai mới được lên nhà, nhưng tất cả đều phải dẫm một chân lên chiếc lồng gà bước lên bậc thang. Trong chiếc lồng còn có một chiếc chổi, vì người Tày cho rằng những gì tốt đẹp hay xấu sẽ được giám sát qua mắt cáo của cái lồng gà. Các vị thần chứng giám đám cưới của đôi vợ chồng trẻ sẽ phù hộ cho họ nếu họ gặp phải khó khăn gì. Nghi lễ này được thực hiện ở cả nhà trai và nhà gái.

Ngoài ra việc nhập gia của nhà trai còn phải thực hiện qua một số bước như hát vào nhà, hát thuyết phục nhà gái mở cửa. Bên cạnh đó còn có lối hát khác như khuyên dạy con cái làm ăn hay xin phép được nhà gái vẩy rửa những bụi bậm trên đường trước khi làm lễ… và những lối hát này được trích từ những cuốn sách mà người Tày ghi lại, mà quan làng là những người thuộc nhất và thông hiểu phong tục nhất.

Một trong những nét khá đặc sắc trong đám cưới của người Tày đó là tục cúng vải xô và vải đỏ. Ngoài những lễ vật nhà trai mang đến để cúng gia tiên của cô dâu như bánh dày, xôi, rượu, thịt gà, tấm vải xô thường không bao giờ thiếu được và luôn được đặt ở một vị trí quan trọng của ban thờ. Tấm vải này là tấm vải con rể tặng mẹ vợ, nhưng không phải để mẹ dùng ngay. Nó được đặt trên ban thờ hoặc cất giữ cho đến ngày mẹ của cô dâu không còn nữa, và khi mất người ta sẽ chôn mảnh vải này theo thi hài của mẹ vợ. Nghi lễ này thể hiện tính nhân văn cao, nó vừa thể hiện lòng biết ơn của con rể, vừa là sự tôn kính công nuôi dưỡng sinh thành của người phụ nữ Tày.

Cũng như nhiều dân tộc khác, tình cảm người mẹ và con gái rất gần gũi. Mẹ dạy con cái trồng bông, dệt vải, làm nương thêu thùa, múa hát. Bởi vậy khi con về nhà chồng cũng là ngày mẹ và con chẳng muốn xa nhau. Mẹ dạy con phải biết thu vén cho gia đình bên chồng, phải chăm chỉ chịu thương chịu khó và một trong những phong tục mà người Tày cũng như người Mường, người Thái là khi cô dâu về nhà chồng bao giờ cũng chuẩn bị chăn gối để biếu bố mẹ bên chồng và chuẩn bị cuộc sống sinh hoạt sắp tới. Người Tày không bao giờ tự mang chăn gối đến nhà trai trước. Chỉ có thể mang theo chăn gối khi đã chính thức được thổ công thần đất của gia tiên đồng ý, mang may mắn vào chiếc chăn, chiếc gối này. Người Tày có tục, nếu em gái lấy chồng mà anh trai chưa lấy vợ phải có thêm một tục lệ là tặng khăn cho anh trai, người tặng khăn không phải là cô dâu mà chính là chú rể. Chú rể phải trực tiếp trao khăn cho anh trai của cô dâu với ý nghĩa xin phép anh cho em được lập gia đình trước, tấm khăn đỏ với ý nghĩa cầu chúc cho anh những điều tốt đẹp. Và trong đám cưới, người anh của cô dâu cũng có những mâm riêng để mời bạn bè của mình, và người Tày cho rằng trong ngày lễ này, anh của cô dâu sẽ có rất nhiều may mắn mà em rể gửi tặng, nên sẽ có nhiều cơ hội để lựa chọn cho mình những người tâm đầu ý hợp, người bạn trăm năm của mình. Do vậy, trong ngày cưới còn có lối hát dao duyên để các đôi trai gái có thể tìm hiểu lẫn nhau.

Nghi lễ trong đám cưới của người Tày, nhất là thủ tục chính thức cô dâu chú rể xin phép để về nhà chồng khá phong phú. Người ta còn thấy ở đây những quy định về lạy, mời rượu, hay việc sắp xếp những bát rượu, cốc rượu ở cửa ra vào trước khi nhà trai về… như sự đóng và mở cho những nghi lễ, nghi thức trong nhà. Và đối với người Tày đây là những quy định không thể thiếu, được ghi lại thành văn mà các quan làng gìn giữ và hướng dẫn lại.

Phỏng vấn bà Hoàng Thị Lả, dân tộc Tày – Hà Giang : “Phong tục này không thể thiếu, vì thiếu nó, cô dâu chú rể sẽ khó có được một cuộc sống hạnh phúc. Nếu làm cho gia tiên và các vị thần phật lòng, không chỉ những người trong nhà gặp phải những điều xui xẻo, mà việc sinh nở, hay cuộc sống gia đình của cô dâu sẽ không tránh khỏi những bất trắc”.

Các thủ tục kết thúc cũng là lúc cô dâu được chính thức đưa về nhà chồng. Đoàn nhà trai đi trước, đoàn nhà gái có các bà, các mẹ đi sau. Mặc dù trời sáng, nhưng bao giờ cô dâu cũng mang theo ngọn đèn dầu. Người Tày cho rằng ngọn đèn sẽ là tín hiệu soi sáng dẫn đường cho cô dâu làm những điều phải, điều đúng, nhưng cũng là ngọn đèn xua đi những cái xấu, những điều chưa tốt. Đám cưới là mốc quan trọng của một đời người, nhưng cũng là sự bắt đầu cho một cuộc sống mới với những lo toan vất vả. Những bài hát dao duyên tuy đã được sáng tác xưa lắm rồi nhưng vẫn có một sức sống mạnh mẽ : “Chào em, sáng gặp em, tối lại muốn gặp em. Em đến thăm, anh muốn hỏi về em, không hỏi thì không nên, nhưng thăm rồi lại sợ không nên làm quen. Sợ em chẳng thương, anh tủi, Em sẽ chẳng phụ lòng người muốn gặp, từ xa nhìn lại sáng như mặt trời. Cho em nhớ mấy ngày quên ăn, đêm quên ngủ, ngắm ngọn đèn nhung nhớ…”.

Đám cưới của người dân tộc Tày với những nét đặc sắc còn giữ lại được chỉ là một trong ngàn nghìn những nghi lễ của người dân tộc thiểu số. Với trên 20 dân tộc anh em thuộc các nhóm ngôn ngữ Việt, Mường, Tày, Thái, Mông Dao, Tạng Miền… có thể nói Hà Giang là một tỉnh có nền văn hóa các dân tộc thiểu số vô cùng phong phú.

Tuy nhiên để gìn giữ bản sắc văn hóa của các dân tộc như giữ lại được những trang phục cổ truyền, sinh hoạt văn hóa trong đám cưới, ma chay, lễ hội, trong xu hướng phát triển kinh tế hội nhập ngày nay là điều không phải dễ dàng. Việc phát huy những nét sinh hoạt văn hóa độc đáo của người dân tộc, gìn giữ nó đòi hỏi một chính sách nhất quán để người dân tộc hiểu và nhận thức được vốn quý giá của dân tộc, có ý thức gìn giữ là lưu truyền qua nhiều thế hệ. Có như vậy mới tránh được tình trạng dần mất đi bản sắc của dân tộc mình, mà nhiều dân tộc hiện nay đang gặp phải. Muốn làm được điều này, đòi hỏi phải có sự quan tâm và đầu tư cho văn hóa để phát triển văn hóa miền cao. Đây không chỉ là vấn đề đặt ra cho tỉnh Hà Giang mà cho nhiều những tỉnh miền núi khác. Chúng tôi đã được đặt chân tới nhiều vùng đất, có nhiều dân tộc sinh sống, nhưng vừa phát triển kinh tế, vừa gìn giữ được văn hóa truyền thống thì không phải nơi nào cũng làm được. Người dân tộc ai chẳng mong muốn giữ lại vốn qúy văn hóa mà ông cha để lại. Nhưng có lẽ cái nghèo và những lo toan cuộc sống của ngày thường dường như đã làm cho họ phần nào quên đi những sinh hoạt văn hóa truyền thống. Chúng tôi cũng hy vọng rằng nếu các tỉnh miền núi thực sự quan tâm cho đầu tư văn hóa, khôi phục sưu tầm lại vốn cổ, thì những đám cưới như trên sẽ còn nhiều và còn nhiều hơn nữa những sinh hoạt văn hóa phong phú của các dân tộc.

Hoàng Minh Thắng
Hà Giang là một tỉnh miền núi có khá nhiều dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, La Chí, PuPéo, Pàthẻn… Chính bởi sự quần cư của nhiều dân tộc trên cùng một mảnh đất đã tạo cho nền văn hóa Hà Giang những nét văn hóa độc đáo.

Cùng góp chung trong nền văn hóa phong phú đó, phải kể tới dân tộc Tày ở Hà Giang có trên 130.000 người, đứng thứ hai sau người Mông tập trung ở Bắc Quang, Bắc Mè, Vị Xuyên, Xín Mần, Hoàng Su Fìn… Nét đẹp trong văn hóa người Tày là những lễ hội mang tính cộng đồng như cầu mùa, cúng các thần linh là tục kết bạn, người Tày gọi là Hét tòng và đặc biệt là đám cưới của người Tày với những nét văn hóa khá độc đáo.

Có dịp về Hà Giang, thăm bản người Tày, chúng tôi cũng muốn được tham dự, tìm hiểu những sinh hoạt văn hóa của tộc người này. Nhưng để tìm những đám cưới nguyên sơ theo đúng nghi thức cũ thì không còn nhiều. Vì do sự giao lưu kinh tế và hội nhập văn hóa miền xuôi, đám cưới ngày nay đã được đơn giản hóa theo nếp sống văn hóa mới. Nhưng cũng thật may ở Vị Xuyên, một trong những huyện ở Hà Giang vẫn còn giữ lại những nét văn hóa cũ trong đám cưới. Vì là ngày vui trọng đại của gia đình, nên công việc nấu nướng do nữ đảm nhiệm được chuẩn bị từ sáng sớm. Nhà trai cũng vậy chọn được giờ đẹp là khởi hành mang theo lễ vật đến đón dâu. Muốn đón được cô dâu về nhà chồng ngoài những lễ vật quy ước như xôi, bánh dày, gà, cau, còn phải có một số đồ lễ để cúng thổ công và gia tiên nhà cô dâu. Đồ lễ đều phải sơn màu đỏ, hoặc tết dây đỏ tượng trưng cho sự son sắc. Đặc biệt, tục chăng dây của người Tày với sợi dây màu đỏ tuy giống một số dân tộc khác nhưng sự khác biệt của nó lại là sự diễn xuất của lối hát quan làng.

Trong đám cưới, vai trò của ông mối mà người ta gọi là quan làng gồm 2 người vô cùng quan trọng. Họ phải biết hát đối đáp bên nhà gái để có thể tháo được sợi dây đỏ, mà người Tày cho rằng đó là biểu hiện những thách thức khó khăn mà nhà gái đã nuôi dưỡng cô dâu cho đến trưởng thành.Hôm nay ngày lành tháng tốt,

Đoàn nhà trai chúng tôi chẳng ngại khó khăn.
Công dưỡng dục sinh thành cô dâu,
Chúng tôi xin tỏ lòng thành kính.
…Biết nhà trai đến đây chúng tôi căng sợi dây đó
Có thành quả nào mà không phải có khó khăn
Nếu tình cảm chân thành
Sẽ đưa các anh qua hàng rào có sợi dây đỏ.

Vượt qua sợi dây đỏ, các quan làng của họ nhà trai phải hát đối đáp cùng bên nhà gái theo lối hát vừa cổ truyền (tức là theo cách các cụ truyền lại, ngoài ra có thể ứng tác theo văn cảnh). Trước khi đoàn nhà trai được lên nhà, người Tày còn phải làm một nhập tục đầy ý nghĩa, ở đây ông quan làng phải dâng cho thầy cúng gồm một mâm có gạo, tiền… và một chiếc áo của chú rể, để thầy cúng trình cho thổ công, thổ địa của gia đình biết rằng giờ chú rể đã là con trong nhà. Và chiếc áo là vật nhận dạng, nếu không có nghi lễ này, chú rể sẽ khó được gia đình nhà gái chấp nhận.

Lễ cúng được thực hiện xong, đoàn nhà trai mới được lên nhà, nhưng tất cả đều phải dẫm một chân lên chiếc lồng gà bước lên bậc thang. Trong chiếc lồng còn có một chiếc chổi, vì người Tày cho rằng những gì tốt đẹp hay xấu sẽ được giám sát qua mắt cáo của cái lồng gà. Các vị thần chứng giám đám cưới của đôi vợ chồng trẻ sẽ phù hộ cho họ nếu họ gặp phải khó khăn gì. Nghi lễ này được thực hiện ở cả nhà trai và nhà gái.

Ngoài ra việc nhập gia của nhà trai còn phải thực hiện qua một số bước như hát vào nhà, hát thuyết phục nhà gái mở cửa. Bên cạnh đó còn có lối hát khác như khuyên dạy con cái làm ăn hay xin phép được nhà gái vẩy rửa những bụi bậm trên đường trước khi làm lễ… và những lối hát này được trích từ những cuốn sách mà người Tày ghi lại, mà quan làng là những người thuộc nhất và thông hiểu phong tục nhất.

Một trong những nét khá đặc sắc trong đám cưới của người Tày đó là tục cúng vải xô và vải đỏ. Ngoài những lễ vật nhà trai mang đến để cúng gia tiên của cô dâu như bánh dày, xôi, rượu, thịt gà, tấm vải xô thường không bao giờ thiếu được và luôn được đặt ở một vị trí quan trọng của ban thờ. Tấm vải này là tấm vải con rể tặng mẹ vợ, nhưng không phải để mẹ dùng ngay. Nó được đặt trên ban thờ hoặc cất giữ cho đến ngày mẹ của cô dâu không còn nữa, và khi mất người ta sẽ chôn mảnh vải này theo thi hài của mẹ vợ. Nghi lễ này thể hiện tính nhân văn cao, nó vừa thể hiện lòng biết ơn của con rể, vừa là sự tôn kính công nuôi dưỡng sinh thành của người phụ nữ Tày.

Cũng như nhiều dân tộc khác, tình cảm người mẹ và con gái rất gần gũi. Mẹ dạy con cái trồng bông, dệt vải, làm nương thêu thùa, múa hát. Bởi vậy khi con về nhà chồng cũng là ngày mẹ và con chẳng muốn xa nhau. Mẹ dạy con phải biết thu vén cho gia đình bên chồng, phải chăm chỉ chịu thương chịu khó và một trong những phong tục mà người Tày cũng như người Mường, người Thái là khi cô dâu về nhà chồng bao giờ cũng chuẩn bị chăn gối để biếu bố mẹ bên chồng và chuẩn bị cuộc sống sinh hoạt sắp tới. Người Tày không bao giờ tự mang chăn gối đến nhà trai trước. Chỉ có thể mang theo chăn gối khi đã chính thức được thổ công thần đất của gia tiên đồng ý, mang may mắn vào chiếc chăn, chiếc gối này. Người Tày có tục, nếu em gái lấy chồng mà anh trai chưa lấy vợ phải có thêm một tục lệ là tặng khăn cho anh trai, người tặng khăn không phải là cô dâu mà chính là chú rể. Chú rể phải trực tiếp trao khăn cho anh trai của cô dâu với ý nghĩa xin phép anh cho em được lập gia đình trước, tấm khăn đỏ với ý nghĩa cầu chúc cho anh những điều tốt đẹp. Và trong đám cưới, người anh của cô dâu cũng có những mâm riêng để mời bạn bè của mình, và người Tày cho rằng trong ngày lễ này, anh của cô dâu sẽ có rất nhiều may mắn mà em rể gửi tặng, nên sẽ có nhiều cơ hội để lựa chọn cho mình những người tâm đầu ý hợp, người bạn trăm năm của mình. Do vậy, trong ngày cưới còn có lối hát dao duyên để các đôi trai gái có thể tìm hiểu lẫn nhau.

Nghi lễ trong đám cưới của người Tày, nhất là thủ tục chính thức cô dâu chú rể xin phép để về nhà chồng khá phong phú. Người ta còn thấy ở đây những quy định về lạy, mời rượu, hay việc sắp xếp những bát rượu, cốc rượu ở cửa ra vào trước khi nhà trai về… như sự đóng và mở cho những nghi lễ, nghi thức trong nhà. Và đối với người Tày đây là những quy định không thể thiếu, được ghi lại thành văn mà các quan làng gìn giữ và hướng dẫn lại.

Phỏng vấn bà Hoàng Thị Lả, dân tộc Tày – Hà Giang : “Phong tục này không thể thiếu, vì thiếu nó, cô dâu chú rể sẽ khó có được một cuộc sống hạnh phúc. Nếu làm cho gia tiên và các vị thần phật lòng, không chỉ những người trong nhà gặp phải những điều xui xẻo, mà việc sinh nở, hay cuộc sống gia đình của cô dâu sẽ không tránh khỏi những bất trắc”.

Các thủ tục kết thúc cũng là lúc cô dâu được chính thức đưa về nhà chồng. Đoàn nhà trai đi trước, đoàn nhà gái có các bà, các mẹ đi sau. Mặc dù trời sáng, nhưng bao giờ cô dâu cũng mang theo ngọn đèn dầu. Người Tày cho rằng ngọn đèn sẽ là tín hiệu soi sáng dẫn đường cho cô dâu làm những điều phải, điều đúng, nhưng cũng là ngọn đèn xua đi những cái xấu, những điều chưa tốt. Đám cưới là mốc quan trọng của một đời người, nhưng cũng là sự bắt đầu cho một cuộc sống mới với những lo toan vất vả. Những bài hát dao duyên tuy đã được sáng tác xưa lắm rồi nhưng vẫn có một sức sống mạnh mẽ : “Chào em, sáng gặp em, tối lại muốn gặp em. Em đến thăm, anh muốn hỏi về em, không hỏi thì không nên, nhưng thăm rồi lại sợ không nên làm quen. Sợ em chẳng thương, anh tủi, Em sẽ chẳng phụ lòng người muốn gặp, từ xa nhìn lại sáng như mặt trời. Cho em nhớ mấy ngày quên ăn, đêm quên ngủ, ngắm ngọn đèn nhung nhớ…”.

Đám cưới của người dân tộc Tày với những nét đặc sắc còn giữ lại được chỉ là một trong ngàn nghìn những nghi lễ của người dân tộc thiểu số. Với trên 20 dân tộc anh em thuộc các nhóm ngôn ngữ Việt, Mường, Tày, Thái, Mông Dao, Tạng Miền… có thể nói Hà Giang là một tỉnh có nền văn hóa các dân tộc thiểu số vô cùng phong phú.

Tuy nhiên để gìn giữ bản sắc văn hóa của các dân tộc như giữ lại được những trang phục cổ truyền, sinh hoạt văn hóa trong đám cưới, ma chay, lễ hội, trong xu hướng phát triển kinh tế hội nhập ngày nay là điều không phải dễ dàng. Việc phát huy những nét sinh hoạt văn hóa độc đáo của người dân tộc, gìn giữ nó đòi hỏi một chính sách nhất quán để người dân tộc hiểu và nhận thức được vốn quý giá của dân tộc, có ý thức gìn giữ là lưu truyền qua nhiều thế hệ. Có như vậy mới tránh được tình trạng dần mất đi bản sắc của dân tộc mình, mà nhiều dân tộc hiện nay đang gặp phải. Muốn làm được điều này, đòi hỏi phải có sự quan tâm và đầu tư cho văn hóa để phát triển văn hóa miền cao. Đây không chỉ là vấn đề đặt ra cho tỉnh Hà Giang mà cho nhiều những tỉnh miền núi khác. Chúng tôi đã được đặt chân tới nhiều vùng đất, có nhiều dân tộc sinh sống, nhưng vừa phát triển kinh tế, vừa gìn giữ được văn hóa truyền thống thì không phải nơi nào cũng làm được. Người dân tộc ai chẳng mong muốn giữ lại vốn qúy văn hóa mà ông cha để lại. Nhưng có lẽ cái nghèo và những lo toan cuộc sống của ngày thường dường như đã làm cho họ phần nào quên đi những sinh hoạt văn hóa truyền thống. Chúng tôi cũng hy vọng rằng nếu các tỉnh miền núi thực sự quan tâm cho đầu tư văn hóa, khôi phục sưu tầm lại vốn cổ, thì những đám cưới như trên sẽ còn nhiều và còn nhiều hơn nữa những sinh hoạt văn hóa phong phú của các dân tộc.

Hoàng Minh Thắng

Người Tày cưới hỏi linh đình (Thu Hòa)

Đám cưới truyền thống của người Tày trải qua các nghi thức: Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ đón dâu và đưa dâu. Từ các hình thức nghi lễ, trang phục, ẩm thực đến điệu hát quan lang… đám cưới không đơn thuần là nghi thức kết duyên đôi lứa mà còn giáo dục về nghĩa vợ chồng, về các mối quan hệ gia đình, dòng tộc.

Đám cưới người Tày: Kết duyên, kết cả họ hàng
Người già làm bạn, đã có ý hướng con trai, con gái mình đến với nhau. Khi bố mẹ thuận rồi và đôi trẻ đến tuổi đính ước, họ sẽ tiến hành lấy mệnh, hỏi lộc mệnh của người con gái. Người ta so bằng các con giáp, nếu xung khắc thì dù yêu đến đâu, họ cũng không lấy nhau.

   Người Tày đặt 3 lần lễ mới tổ chức được ngày cưới. Thứ nhất là đi hỏi ý bố mẹ cô dâu. Phải có 1-2 cân thịt, 1 lít rượu cho ông đại diện đi tìm hiểu. Nếu cho rồi, thứ hai, mới đi lấy 8 số mệnh của cô dâu, chú rể. Đi lấy số cho cô dâu về rồi, lại đi xem số của anh với số của chị có hợp, có gì khắc với nhau, như thế người ta mới lấy nhau.

Tuổi hợp rồi thì nhà trai sẽ tiến hành lễ dạm hỏi, gọi là lễ pao minh. Một ông chú, ông bác cao tuổi đại diện cho nhà trai cùng một người đi gánh lễ vật, gồm: đôi gà trống thiến, gạo nếp, 1-2 cân thịt lợn và hai chai rượu nếp nương. Trong lễ ăn hỏi, hai bên bàn bạc và quyết định lễ vật cưới. Trước đây, tục thách cưới của người Tày khá nặng nề, thể hiện qua câu tục ngữ “nhinh khai, chài dư”, nghĩa là “gái bán, trai mua”. Dần dần, do được tự tìm hiểu, yêu nhau rồi mới lấy, nhà gái cũng thông cảm với điều kiện kinh tế của nhà trai.

“Thách cưới, cứ 100 cái bánh dày, 120 kg thịt xôi. Nhà có bao nhiêu người thì bao nhiêu cái lễ. Bố mẹ, anh em, mỗi gia đình 1 con gà, 1 cái bánh. Họ hàng có nhiều người ta đòi nhiều, sau này chị có con thì những người họ hàng ấy lại mang gà đi phục vụ chị” – bà Vân nói.

Theo phong tục, mọi chi phí tổ chức đám cưới, sản vật dùng làm cỗ cưới của nhà gái đều do nhà trai lo liệu. Lễ vật đón dâu thường gồm: Tiền dẫn cưới, 100 chiếc bánh chưng, 400 chiếc bánh dày nhỏ, con lợn trên một tạ; 150 - 300 đôi bánh dày; 120 - 150 chiếc bánh tét; 10 - 15 con gà trống thiến. Và một người con rể có tâm còn phải để ý nhà vợ tương lai có bao nhiêu cô dì chú bác, anh chị em, thì gửi gắm cho mỗi người chút quà.

Nhà trai gánh sang 3 gánh lễ, nhà gái cho đi cả xe của hồi môn!
Lễ cưới chính thức tổ chức trong hai ngày. Nhà gái tổ chức hôm trước, nhà trai tổ chức hôm sau. Trước khi nhà trai đi đón dâu, phải làm lễ cúng tổ tiên. Lễ vật không thể thiếu đôi gà: 1 trống 1 mái, biểu hiện cho sự sinh sôi nảy nở. Đoàn người nhà trai đi đón dâu cũng phải có đôi, tổng là con số chẵn, tượng trưng cho sự may mắn. Thành phần đoàn thường từ 8 - 10 người, gồm: ông trưởng họ, bà mối, phù dâu phù rể và một số bạn bè, người thân.

Bà Nông Thị Vân thống kê lễ vật: “Lúc đi đón con dâu ấy, ba gánh lễ vật gồm bánh, con gà, thuốc lá, trầu cau, hẳn 1 con lợn quay nữa , 1 con lợn to 80 – 100kg, kèm theo hàng trăm chiếc bánh, 1 đôi lợn còn sống trọng lượng khoảng 6-70kg, to nữa càng tốt”.

Thường thì đám cưới rất cần sự chuẩn bị chu đáo của nhà trai, nhưng theo phong tục người Tày, nhà gái phải lo liệu từ rất sớm, thậm chí họ phải lo ngay từ khi sinh con gái.

Gánh lễ vật sang nhà gái.  Ảnh: baomoi.com

“Từ khi đẻ con gái là bà mẹ đã nghĩ chuyện rồi. Sau đó, trước ngày cưới 2-3 tháng là chuẩn bị. Toàn bộ chăn màn vải vóc là từ bàn tay của mẹ và của người sẽ làm dâu đó khâu vá hết, chứ không phải bỏ tiền đi mua. Phổ biến nhất là 4 chăn 4 màn, lấy số đôi chứ không dùng số lẻ. Gia đình khó khăn cũng phải 2 chăn 2 màn. Nếu con dâu thuộc nhà khá giả thì còn 1 bộ chăn màn cho ông bà nội, cho bố mẹ, cho vợ chồng, bộ để ở phòng khách…” – theo ông Hoàng Đức Hiền, Phó chủ tịch Hội bảo tồn dân ca tỉnh Cao Bằng.

Con gái Tày khoảng 10 tuổi đã lo trồng bông dệt vải, để khi kết hôn, có đủ gánh lễ dâng lên bàn thờ nhà chồng, đủ quà biếu ông bà nội ngoại, bố mẹ, cô dì chú bác bên chồng. Của hồi môn cô gái mang theo được mẹ đẻ và các bà các dì chuẩn bị chu đáo. Thường là vải vóc, chăn màn, đồ trang sức... đựng trong rương gỗ. Đồng thời, cô dâu còn phải chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ phục vụ sinh hoạt và lao động sản xuất.

Bà Vân bảo: “Nhiều lắm, có người hàng xe ngựa. Bắt buộc phải có, không có thì con gái bảo bố mẹ đẻ không chuẩn bị cho, con gái xấu hổ với bạn bè. Nếu đi làm dâu mà tách ra ở riêng thì cũng đủ làm ăn, không thiếu cái gì. Người Tày ở Cao Bằng thì họ giúp nhau, như bà gả con gái thì các bà các cô giúp mỗi người một cái chăn bông hoặc cái màn, chứ bố mẹ không tự sắm được hết. Nếu người ta gả con gái thì mình lại tặng, chẳng khác gì mượn nhau giúp nhau”.

Cô dâu mới không ở nhà chồng
Điều đặc biệt trong đám cưới người Tày là sau khi đón dâu, cô dâu mới không ở lại nhà chồng mà quay về nhà mẹ đẻ. Sau đó, cô được mẹ chồng “kiếm cớ” nhà bận nhiều công chuyện để gọi về, như: cấy lúa, nhổ mạ, giã gạo… cốt để đôi trẻ có dịp gần gũi. Khi cô gái có mang, chuẩn bị đến ngày sinh nở, mới được nhà chồng đón về. Và khi sinh con, cô dâu lúc này mới chính thức trở thành người bên chồng.

  Nhà trai đưa người con dâu đi trình họ hàng tổ tiên nhà trai xong, cô dâu lại quay về nhà mẹ. Đến 3 ngày sau, bên nhà trai có 1 lễ nhỏ thôi, có gà, xôi, thịt lợn, đến cảm ơn nhà gái. Sau đó, người con dâu gánh cái gánh nhà trai mang đến buổi sáng ấy về nhà chồng, nhưng cũng không ở nhà trai, mà lại về. Khi nhà trai bận ngày mùa cày cấy thì đi đón cô con dâu về. Ban ngày, con dâu đi làm, đêm lại về bố mẹ đẻ. Cho đến khi mang thai tháng thứ 6-7 thì còn 1 lễ nữa, gọi là song khoăn. Khoăn là hồn vía. Nghĩa là tuy đã tổ chức rồi, nhưng hồn vía người con gái vẫn ở bên bố mẹ đẻ. Nay sắp sinh nở rồi thì đưa hồn vía của con gái về hẳn, chính thức ở lại sống bên nhà trai.

Thu Hòa
Đám cưới truyền thống của người Tày trải qua các nghi thức: Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ đón dâu và đưa dâu. Từ các hình thức nghi lễ, trang phục, ẩm thực đến điệu hát quan lang… đám cưới không đơn thuần là nghi thức kết duyên đôi lứa mà còn giáo dục về nghĩa vợ chồng, về các mối quan hệ gia đình, dòng tộc.

Đám cưới người Tày: Kết duyên, kết cả họ hàng
Người già làm bạn, đã có ý hướng con trai, con gái mình đến với nhau. Khi bố mẹ thuận rồi và đôi trẻ đến tuổi đính ước, họ sẽ tiến hành lấy mệnh, hỏi lộc mệnh của người con gái. Người ta so bằng các con giáp, nếu xung khắc thì dù yêu đến đâu, họ cũng không lấy nhau.

   Người Tày đặt 3 lần lễ mới tổ chức được ngày cưới. Thứ nhất là đi hỏi ý bố mẹ cô dâu. Phải có 1-2 cân thịt, 1 lít rượu cho ông đại diện đi tìm hiểu. Nếu cho rồi, thứ hai, mới đi lấy 8 số mệnh của cô dâu, chú rể. Đi lấy số cho cô dâu về rồi, lại đi xem số của anh với số của chị có hợp, có gì khắc với nhau, như thế người ta mới lấy nhau.

Tuổi hợp rồi thì nhà trai sẽ tiến hành lễ dạm hỏi, gọi là lễ pao minh. Một ông chú, ông bác cao tuổi đại diện cho nhà trai cùng một người đi gánh lễ vật, gồm: đôi gà trống thiến, gạo nếp, 1-2 cân thịt lợn và hai chai rượu nếp nương. Trong lễ ăn hỏi, hai bên bàn bạc và quyết định lễ vật cưới. Trước đây, tục thách cưới của người Tày khá nặng nề, thể hiện qua câu tục ngữ “nhinh khai, chài dư”, nghĩa là “gái bán, trai mua”. Dần dần, do được tự tìm hiểu, yêu nhau rồi mới lấy, nhà gái cũng thông cảm với điều kiện kinh tế của nhà trai.

“Thách cưới, cứ 100 cái bánh dày, 120 kg thịt xôi. Nhà có bao nhiêu người thì bao nhiêu cái lễ. Bố mẹ, anh em, mỗi gia đình 1 con gà, 1 cái bánh. Họ hàng có nhiều người ta đòi nhiều, sau này chị có con thì những người họ hàng ấy lại mang gà đi phục vụ chị” – bà Vân nói.

Theo phong tục, mọi chi phí tổ chức đám cưới, sản vật dùng làm cỗ cưới của nhà gái đều do nhà trai lo liệu. Lễ vật đón dâu thường gồm: Tiền dẫn cưới, 100 chiếc bánh chưng, 400 chiếc bánh dày nhỏ, con lợn trên một tạ; 150 - 300 đôi bánh dày; 120 - 150 chiếc bánh tét; 10 - 15 con gà trống thiến. Và một người con rể có tâm còn phải để ý nhà vợ tương lai có bao nhiêu cô dì chú bác, anh chị em, thì gửi gắm cho mỗi người chút quà.

Nhà trai gánh sang 3 gánh lễ, nhà gái cho đi cả xe của hồi môn!
Lễ cưới chính thức tổ chức trong hai ngày. Nhà gái tổ chức hôm trước, nhà trai tổ chức hôm sau. Trước khi nhà trai đi đón dâu, phải làm lễ cúng tổ tiên. Lễ vật không thể thiếu đôi gà: 1 trống 1 mái, biểu hiện cho sự sinh sôi nảy nở. Đoàn người nhà trai đi đón dâu cũng phải có đôi, tổng là con số chẵn, tượng trưng cho sự may mắn. Thành phần đoàn thường từ 8 - 10 người, gồm: ông trưởng họ, bà mối, phù dâu phù rể và một số bạn bè, người thân.

Bà Nông Thị Vân thống kê lễ vật: “Lúc đi đón con dâu ấy, ba gánh lễ vật gồm bánh, con gà, thuốc lá, trầu cau, hẳn 1 con lợn quay nữa , 1 con lợn to 80 – 100kg, kèm theo hàng trăm chiếc bánh, 1 đôi lợn còn sống trọng lượng khoảng 6-70kg, to nữa càng tốt”.

Thường thì đám cưới rất cần sự chuẩn bị chu đáo của nhà trai, nhưng theo phong tục người Tày, nhà gái phải lo liệu từ rất sớm, thậm chí họ phải lo ngay từ khi sinh con gái.

Gánh lễ vật sang nhà gái.  Ảnh: baomoi.com

“Từ khi đẻ con gái là bà mẹ đã nghĩ chuyện rồi. Sau đó, trước ngày cưới 2-3 tháng là chuẩn bị. Toàn bộ chăn màn vải vóc là từ bàn tay của mẹ và của người sẽ làm dâu đó khâu vá hết, chứ không phải bỏ tiền đi mua. Phổ biến nhất là 4 chăn 4 màn, lấy số đôi chứ không dùng số lẻ. Gia đình khó khăn cũng phải 2 chăn 2 màn. Nếu con dâu thuộc nhà khá giả thì còn 1 bộ chăn màn cho ông bà nội, cho bố mẹ, cho vợ chồng, bộ để ở phòng khách…” – theo ông Hoàng Đức Hiền, Phó chủ tịch Hội bảo tồn dân ca tỉnh Cao Bằng.

Con gái Tày khoảng 10 tuổi đã lo trồng bông dệt vải, để khi kết hôn, có đủ gánh lễ dâng lên bàn thờ nhà chồng, đủ quà biếu ông bà nội ngoại, bố mẹ, cô dì chú bác bên chồng. Của hồi môn cô gái mang theo được mẹ đẻ và các bà các dì chuẩn bị chu đáo. Thường là vải vóc, chăn màn, đồ trang sức... đựng trong rương gỗ. Đồng thời, cô dâu còn phải chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ phục vụ sinh hoạt và lao động sản xuất.

Bà Vân bảo: “Nhiều lắm, có người hàng xe ngựa. Bắt buộc phải có, không có thì con gái bảo bố mẹ đẻ không chuẩn bị cho, con gái xấu hổ với bạn bè. Nếu đi làm dâu mà tách ra ở riêng thì cũng đủ làm ăn, không thiếu cái gì. Người Tày ở Cao Bằng thì họ giúp nhau, như bà gả con gái thì các bà các cô giúp mỗi người một cái chăn bông hoặc cái màn, chứ bố mẹ không tự sắm được hết. Nếu người ta gả con gái thì mình lại tặng, chẳng khác gì mượn nhau giúp nhau”.

Cô dâu mới không ở nhà chồng
Điều đặc biệt trong đám cưới người Tày là sau khi đón dâu, cô dâu mới không ở lại nhà chồng mà quay về nhà mẹ đẻ. Sau đó, cô được mẹ chồng “kiếm cớ” nhà bận nhiều công chuyện để gọi về, như: cấy lúa, nhổ mạ, giã gạo… cốt để đôi trẻ có dịp gần gũi. Khi cô gái có mang, chuẩn bị đến ngày sinh nở, mới được nhà chồng đón về. Và khi sinh con, cô dâu lúc này mới chính thức trở thành người bên chồng.

  Nhà trai đưa người con dâu đi trình họ hàng tổ tiên nhà trai xong, cô dâu lại quay về nhà mẹ. Đến 3 ngày sau, bên nhà trai có 1 lễ nhỏ thôi, có gà, xôi, thịt lợn, đến cảm ơn nhà gái. Sau đó, người con dâu gánh cái gánh nhà trai mang đến buổi sáng ấy về nhà chồng, nhưng cũng không ở nhà trai, mà lại về. Khi nhà trai bận ngày mùa cày cấy thì đi đón cô con dâu về. Ban ngày, con dâu đi làm, đêm lại về bố mẹ đẻ. Cho đến khi mang thai tháng thứ 6-7 thì còn 1 lễ nữa, gọi là song khoăn. Khoăn là hồn vía. Nghĩa là tuy đã tổ chức rồi, nhưng hồn vía người con gái vẫn ở bên bố mẹ đẻ. Nay sắp sinh nở rồi thì đưa hồn vía của con gái về hẳn, chính thức ở lại sống bên nhà trai.

Thu Hòa

BIẾN ĐỔI TRONG NGHI LỄ CƯỚI XIN CỦA NGƯỜI TÀY CAO LỘC, LẠNG SƠN (Giang Thị Huyền)

Lễ cưới là một trong những nghi lễ vô cùng quan trọng, phản ánh đậm nét đời sống văn hóa vật chất, tinh thần của một dân tộc. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường, giao lưu, tiếp biến văn hóa diễn ra mạnh mẽ ở các tỉnh phía Bắc khiến nhiều phong tục, tập quán, trong đó có lễ cưới của người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn đang có sự biến đổi. Bài viết đi sâu phân tích quá trình biến đổi trong quan niệm về cưới xin, các nghi lễ cụ thể của nó tại 3 thôn: Bản Vàng, Bắc Đông 2, khối 5 Cao Lộc.

Biến đổi trong hình thức tổ chức
Tập quán cưới xin truyền thống của người Tày nói chung, người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn nói riêng trước đây được tiến hành với các bước, các nghi lễ với thủ tục nghiêm ngặt, trang trọng, đôi khi rườm rà, phức tạp. Theo Triều Ân, Hoàng Quyết trong Tục cưới xin của người Tày thì đám cưới trước đây thường trải qua 6 bước: lễ dạm hỏi, so lá số, mừng hợp số, ăn hỏi, sêu tết, cưới.

Hiện nay, về cơ bản, việc tổ chức cưới hỏi đã được giản lược rất nhiều. Dù tổ chức với quy mô lớn hay nhỏ thì đám cưới người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn hiện nay chủ yếu tiến hành qua 3 bước: lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới, theo mô hình tam lễ.

Sự biến đổi không chỉ nằm ở chỗ giản lược các bước, mà ngay trong từng nội dung các nghi lễ, các thủ tục cũng có nhiều sự thay đổi. Chẳng hạn, lễ dạm ngõ đã có sự thay đổi trong hình thức thể hiện, ý nghĩa nghi lễ. Trước đây, thăm dò là thời điểm nhà trai nhờ mai mối tới nhà gái, thậm chí nhiều trường hợp, đôi trai gái còn chưa hề biết mặt nhau. Vì vậy, vai trò của ông mai, bà mối rất quan trọng. Ông bà mai là cầu nối giữa hai gia đình, là người kết duyên cho đôi trai gái, có ảnh hưởng không nhỏ tới lễ thành hôn cũng như cuộc sống vợ chồng sau này. Tuy nhiên, hiện nay, sự chắp nối của ông mai, bà mối không còn như trước nữa. Xuất phát từ chỗ đôi trai gái tự tìm hiểu nhau để đi đến hôn nhân nên cha mẹ, họ hàng chỉ đóng vai trò đại diện để thưa chuyện, đặt quan hệ cho hai bên gia đình, còn quyền quyết định vẫn thuộc về con cái. Hiện nay một số gia đình còn bỏ qua, không thực hiện riêng lễ thăm dò nữa mà tiến hành lễ ăn hỏi luôn, nhất là những gia đình ở xa nhau về địa lý, đi lại khó khăn.

Thay đổi về đồ sính lễ, phương thức đón dâu
Không chỉ lược bỏ một số nghi lễ trong thủ tục cưới hỏi mà ngay cả đồ sính lễ trong lễ hỏi, lễ cưới cũng có sự giản lược đi rất nhiều. Xuất phát từ quan niệm gả bán nên hôn nhân truyền thống của người Tày trước đây ở một góc độ nào đó mang tính chất mua bán khá rõ. Vì thế người Tày cũng có tục thách cưới rất cao.

Ngày nay, do điều kiện kinh tế, xã hội có nhiều thay đổi nên lễ ăn hỏi cũng được đơn giản hóa hơn trước về phương thức tiến hành, lễ vật. Thường đồ lễ ăn hỏi gồm có 2 chai rượu, 2 cỗ xôi, 2 con gà trống, trầu cau, kèm theo 2 triệu đồng tiền mặt.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi trong tục lệ thách cưới của người Tày ở Cao Lộc hiện nay. Thứ nhất, do trước đây, khi cô gái về nhà chồng phải sắm sửa rất nhiều đồ đạc: chăn, màn, gối, đệm, nồi, niêu, bát, đĩa… để mang theo, nên cần có một khoản tiền tương đối để chi tiêu. Hiện nay, phần lớn đồ đạc là do nhà trai tự sắm nên nhà gái lấy tiền ít đi. Tuy nhiên,có lẽ nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến sự thay đổi trong tục thách cưới của người Tày nằm ở sự thay đổi trong nhận thức. Bởi vì, nhà gái hiểu được rằng, việc thách cưới càng nặng bao nhiêu thì sau này chính con gái họ sẽ phải là người gánh chịu hậu quả, nhất là đối với những gia đình nhà trai khó khăn về kinh tế.

Đoàn đón dâu trong đám cưới của người Tày

Quá trình cư trú xen kẽ, sự giao lưu giữa các tộc người đã làm xuất hiện nhiều cuộc hôn nhân giữa người Tày với dân tộc khác. Để phù hợp với tập quán, đặc trưng văn hóa của từng dân tộc, nhiều thủ tục mang nặng tính lễ nghi đã được giản lược. Trước đây, từ khi ăn hỏi đến đám cưới chính thức phải cách chừng 2, 3 năm; nhưng ngày nay, sau nghi thức ăn hỏi, nếu chọn được ngày tốt thì khoảng 2, 3 tháng sau có thể tổ chức lễ cưới chính thức luôn. Thậm chí, có nhiều trường hợp làm theo người Kinh, sáng tổ chức lễ ăn hỏi, chiều tổ chức lễ cưới, đón dâu luôn, hiếm có trường hợp nào để đến một vài năm sau.

Cách thức tổ chức một lễ cưới của người Tày ở Cao Lộc đã lược bỏ đi nhiều thủ tục rườm rà, không còn phù hợp với sự phát triển của xã hội đương đại, theo hướng tích cực, tiến bộ, hiện đại hơn. Tuy nhiên, có thể thấy sự biến đổi cũng làm mất đi nhiều nét đẹp trong tập quán cưới xin truyền thống. Chẳng hạn, số của cải thách cưới được nhà trai chuẩn bị rất kỳ công, chu đáo cũng là sự bày tỏ lòng biết ơn, trân trọng công lao sinh thành, nuôi dưỡng của nhà gái, để nhà trai có thêm một sức lao động mới, một người con với vai trò vô cùng quan trọng, đặc biệt: sinh con, đẻ cái để nối dõi dòng họ. Trong đó, lễ vật nhà trai mang sang nhà gái nhất thiết phải có một tấm vải tặng mẹ vợ, gọi là rằm khấu, để trả công nuôi dưỡng của bà đối với con gái. Thường thì bà mẹ không sử dụng tấm vải đó may trang phục mà đem nhuộm, cất đi, đợi khi người con gái sinh con đầu lòng thì cắt ra để làm tã cho cháu. Hiện nay, phong tục này đã không còn. Thay vào đó, lễ vật mang sang nhà gái được quy ra tiền. Điều đó phần nào làm mất đi những giá trị nhân văn ẩn chứa đằng sau những tập quán truyền thống.

Đăng ký kết hôn trước khi cưới
Khác với việc tổ chức đám cưới là hình thức công khai hóa, hợp thức hóa rộng rãi sự chung sống chính thức của đôi nam nữ trước họ hàng, những người xung quanh, đăng ký kế thôn là việc đôi nam nữ xác lập quan hệ hôn nhân theo quy định của pháp luật, là sự chính thức hóa quan hệ vợ chồng trước pháp luật.

Cùng với việc tổ chức cưới hỏi thì đăng ký kết hôn dần trở thành một trong các thủ tục không thể thiếu. Điều đó chứng tỏ sự gắn kết giữa ý thức cộng đồng, ý thức về sự tôn trọng luật pháp của người dân ngày càng được nâng lên đáng kể. Những năm gần đây, nhất là từ sau đổi mới, các mối quan hệ được mở rộng, cuộc sống người dân ngày càng có nhiều tình huống cần đến sự trợ giúp pháp lý, người dân ngày càng nhận thức đầy đủ hơn việc thừa nhận của pháp luật với vấn đề kết hôn hợp pháp.

Thực tế cho thấy, có nhiều cặp không đăng ký kết hôn khi cưới, sau nhiều năm chung sống với nhau, mâu thuẫn xảy ra thì chính quyền không có nhiệm vụ hòa giải, pháp luật cũng không thể giải quyết, hầu hết do họ hàng hai bên tác động. Người Tày cho rằng, trong trường hợp đó, người phụ nữ bao giờ cũng chịu thiệt thòi. Do đó, họ nhận thức được việc đăng ký kết hôn giúp họ đảm bảo đủ quyền lợi, trách nhiệm trong cuộc sống vợ chồng. Sự kết hợp giữa nghi thức phong tục với nghi thức pháp luật trong tổ chức cưới hỏi là một trong những sự biến đổi tích cực, tiến bộ trong hôn nhân và cưới xin của người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn hiện nay.

Quy mô tổ chức cưới hỏi
Quy mô tổ chức đám cưới của người Tày ngày càng lớn, không chỉ gia tăng về số lượng mâm cỗ mà chất lượng các món ăn trong cỗ cưới cũng ngày càng được người dân quan tâm, đầu tư hơn. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc quy mô tổ chức đám cưới ngày càng lớn, phần lớn các ý kiến đều thống nhất cho rằng do hiện nay kinh tế phát triển, người dân có điều kiện, phương tiện vật chất để tổ chức cỗ bàn đàng hoàng hơn, sang trọng hơn. Ngoài ra, quá trình giao lưu, buôn bán, làm ăn, công tác… người dân nói chung, thanh niên nam nữ Tày nói riêng cũng có cơ hội mở rộng hơn các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, tâm lý cho bằng anh, bằng em hay phú quý sinh lễ nghĩacũng vẫn chiếm tỷ lệ tương đối. Nguyên nhân vì mục đích kinh tế cũng có nhưng rất ít.

Như vậy, quy mô tổ chức đám cưới của người Tày ở Cao Lộc ngày càng lớn hơn, nhiều hình thức tổ chức đám cưới trong xã hội hiện đại, nhất là của người Kinh đã, đang được người Tày tiếp thu, đưa vào trong phong tục cưới hỏi của dân tộc mình.

Quà mừng trong đám cưới
Theo phong tục, trong đám cưới, khách mời đến dự thường mang theo một món quà, có thể là hiện vật hoặc là tiền, với ý nghĩa chúc phúc, chia sẻ niềm vui với cặp vợ chồng trẻ. Có thể nói, quà mừng trong đám cưới là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người Tày. Đây là một phong tục đẹp, lâu đời, ẩn chứa những giá trị văn hóa rất đặc trưng.

Về giá trị của tiền mừng, tùy theo từng giai đoạn, theo điều kiện kinh tế, mối quan hệ thân tình giữa khách với gia chủ. Thông thường hiện nay, tiền mừng đám cưới của người Tày ở Cao Lộc phổ biến ở mức 200.000 đồng trở lên. Nếu người trong cùng dòng họ hoặc thân thiết hơn có thể 400.000 - 500.000 đồng.

Khi so sánh về giá trị của quà mừng trong đám cưới với chi phí bỏ ra tổ chức đám cưới, kết quả nghiên cứu cho thấy nếu chỉ tính riêng chi phí cho việc tổ chức ăn uống thì tiền mừng của khách mời đủ để trang trải. Tuy nhiên, để tổ chức đám cưới, gia đình còn phải chi thêm nhiều các dịch vụ khác: thuê phông bạt, loa đài, thuê áo cưới, xe đưa đón dâu, bàn ghế, trang trí, chụp ảnh… nên tiền mừng không thể đủ, nhất là với nhà trai còn phải chi thêm một khoản mang sang nhà gái.

Ẩm thực
Trong đám cưới của người Tày hiện nay, về cơ bản vẫn giữ được các món ăn truyền thống đặc biệt của dân tộc mình như khâu nhục, lợn quay, vịt quay, xôi màu… nhưng các món này cũng đều có ảnh hưởng mới từ Trung Quốc. Chẳng hạn như món khâu nhục xuất hiện thêm chất phụ gia nhập từ Trung Quốc mà đồng bào gọi là slao phẩu nhi, đã làm cho mùi vị món ăn khác hẳn so với trước đây. Món nước chấm xưa kia của đồng bào đã thay thế bằng xì dầu ngoại nhập, thậm chí có món ăn hoàn toàn nhập từ Trung Quốc như món ca ra thầu (rau sấy khô đóng hộp).

Một số món ăn truyền thống của người Tày gắn với nông nghiệp nương rẫy, săn bắt hái lượm đã, đang mai một dần, đó là các loại bánh trứng kiến (được làm từ trứng, đúng hơn là nhộng của loài kiến đen vào mùa xuân thường làm tổ đẻ trên các ngọn cây trong rừng), bánh bột đao, bột báng, bánh củ mài. Nhiều món ăn mới cũng xuất hiện do sống hội nhập, đan xen với các tộc người khác, chủ yếu là người Kinh. Trong các món ăn, thịt lợn quay, khâu nhục vẫn là món không thể thiếu được trong đám cưới người Tày. Ngoài ra, hiện nay còn có thêm những món như giò chả, gà, vịt, xào thập cẩm, tôm, nem, thịt đông, khoai tây chiên, canh bóng, mọc…

Trong cỗ cưới của người Tày hiện nay, không chỉ có 4, 5 món luộc, xào như trước mà mỗi mâm đã có từ 8 - 10 món. Cỗ cưới đã có nhiều cải thiện với nhiều món ăn ngon miệng, bổ dưỡng, cách chế biến cũng như bài trí món ăn. Họ không chỉ sử dụng những nguyên liệu sẵn có từ tự nhiên mà có thể mua thêm nhiều gia vị đóng sẵn như miến, hạt tiêu, tương ớt, phẩm màu cũng như các chất bảo quản khác. Cách chế biến ngoài xào, luộc thì có thêm các món nướng, hấp cách thủy, kho... giống như của người Kinh. Ngoài ra, trong mâm cỗ còn có thêm hoa quả để cho khách tráng miệng sau khi ăn.

Còn có cả dịch vụ tổ chức quay lợn để sử dụng trong đám cưới, thuê người nấu cỗ, mang đến tận nhà. Các loại bánh kẹo công nghiệp, đồ hộp, nước có ga cũng được đồng bào sử dụng phổ biến. Thuốc lá được sử dụng loại cuốn máy sẵn có trên thị trường. Bên cạnh loại rượu gạo tự nấu truyền thống, các đồ uống công nghiệp cũng xuất hiện. Trên các mâm cúng, xuất hiện nhiều bánh kẹo nhập khẩu từ nước ngoài.

Trang phục cô dâu, chú rể trong đám cưới

Trang phục là yếu tố thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, dễ nhận thấy nhất trong một tập hợp đa tộc người. Nhưng đó cũng là yếu tố văn hóa dễ biến đổi nhất trong xu thế đô thị hóa, hiện đại hóa như hiện nay.

Việc cô dâu, chú rể mặc trang phục truyền thống trong ngày cưới hiện nay giảm dần. Các đám cưới của người Tày ở huyện Cao Lộc cho thấy, hiện nay, hầu hết chú rể mặc quần âu, áo sơ mi, thắt cà vạt, cài hoa; cô dâu mặc váy trắng, tóc quấn xoăn, trang điểm, tay cầm hoa theo xu hướng hiện đại. Những người tham gia lễ cưới hiện nay cũng có sự thay đổi trong cách ăn mặc. Họ thích mặc áo dài, váy như người Kinh để đi dự đám cưới cho đẹp, hiện đại. Một yếu tố khác nữa là nhiều người quan niệm mặc trang phục truyền thống lạc hậu, không đẹp, không lịch sự. Chính vì thế, người Tày từ lâu đã mặc quần áo như người Kinh.

Có thể thấy, trang phục cưới của cô dâu, chú rể là một trong những lĩnh vực biến đổi mạnh mẽ nhất, dễ nhận ra nhất. Xu hướng Âu hóa thông qua sự tiếp nhận của người Kinh đã tác động mạnh mẽ đến văn hóa Tày. Xu hướng này được giới trẻ hào hứng đón nhận. Giờ đây, nếu chỉ nhìn vào bộ trang phục cô dâu, chú rể thì không thể phân biệt đâu là đám cưới của người Tày, đâu là đám cưới người Kinh.

Của hồi môn của cô dâu, chú rể

Cũng như nhiều dân tộc khác, theo phong tục truyền thống của người Tày, khi lập gia đình, con cái thường được cha mẹ trao cho của hồi môn như là một chút tài sản để làm vốn liếng khi bước vào cuộc sống gia đình. Của hồi môn có thể là tiền, vàng, vật dụng gia đình, gia súc, đất đai, nhà cửa… Thực tế cho thấy, cuộc sống của đồng bào các dân tộc miền núi nói chung, trong đó có người Tày ở Cao Lộc nói riêng còn rất khó khăn, nên khi con cái xây dựng gia đình, bố mẹ không có nhiều tài sản có giá trị cho làm của hồi môn. Chủ yếu, nếu con gái đi lấy chồng thì cho một vài chỉ vàng hoặc ít tiền. Con trai lấy vợ thì ngoài vàng, ít tiền thì bố mẹ sắm sửa cho một ít đồ dùng trong gia đình, phương tiện đi lại...

Thời gian gần đây, của hồi môn mà cô dâu, chủ rể nhận được bằng vàng, tiền mặt tăng lên đáng kể. Của hồi môn là vật dụng gia đình tuy có giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ đáng kể. Từ năm 1987 trở lại đây, gia súc không còn là của hồi môn của cha mẹ cho con cái khi xây dựng gia đình nữa.

Quá trình hội nhập đang làm biến đổi mạnh mẽ tập quán cưới xin truyền thống của người Tày ở Cao Lộc trên tất cả các phương diện: quy mô, hình thức, nội dung tổ chức cưới hỏi. Một trong những biểu hiện dễ thấy nhất là lược bớt các thủ tục, nghi lễ rườm rà không còn phù hợp với xã hội hiện đại. Ngoài ra, xu hướng nổi trội trong tập quán cưới xin của người Tày ở Lạng Sơn hiện nay là tiếp thu, du nhập nhiều hình thức, nghi lễ cưới hỏi của các dân tộc khác, nhất là của người Kinh. Có thể nói, đây là sự biến đổi theo xu hướng tiến bộ, tích cực, hiện đại. Tuy vậy, dù tập quán cưới xin của người Tày có biến đổi đến mức độ nào thì vấn đề bảo tồn những giá trị tốt đẹp, làm cốt lõi cho bản sắc văn hóa tộc người vẫn cần được quan tâm gìn giữ, phát huy để văn hóa Tày không bị pha loãng, mai một, mà còn phát triển bền vững trong xã hội đương đại.
 GIANG THỊ HUYỀN
Lễ cưới là một trong những nghi lễ vô cùng quan trọng, phản ánh đậm nét đời sống văn hóa vật chất, tinh thần của một dân tộc. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường, giao lưu, tiếp biến văn hóa diễn ra mạnh mẽ ở các tỉnh phía Bắc khiến nhiều phong tục, tập quán, trong đó có lễ cưới của người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn đang có sự biến đổi. Bài viết đi sâu phân tích quá trình biến đổi trong quan niệm về cưới xin, các nghi lễ cụ thể của nó tại 3 thôn: Bản Vàng, Bắc Đông 2, khối 5 Cao Lộc.

Biến đổi trong hình thức tổ chức
Tập quán cưới xin truyền thống của người Tày nói chung, người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn nói riêng trước đây được tiến hành với các bước, các nghi lễ với thủ tục nghiêm ngặt, trang trọng, đôi khi rườm rà, phức tạp. Theo Triều Ân, Hoàng Quyết trong Tục cưới xin của người Tày thì đám cưới trước đây thường trải qua 6 bước: lễ dạm hỏi, so lá số, mừng hợp số, ăn hỏi, sêu tết, cưới.

Hiện nay, về cơ bản, việc tổ chức cưới hỏi đã được giản lược rất nhiều. Dù tổ chức với quy mô lớn hay nhỏ thì đám cưới người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn hiện nay chủ yếu tiến hành qua 3 bước: lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới, theo mô hình tam lễ.

Sự biến đổi không chỉ nằm ở chỗ giản lược các bước, mà ngay trong từng nội dung các nghi lễ, các thủ tục cũng có nhiều sự thay đổi. Chẳng hạn, lễ dạm ngõ đã có sự thay đổi trong hình thức thể hiện, ý nghĩa nghi lễ. Trước đây, thăm dò là thời điểm nhà trai nhờ mai mối tới nhà gái, thậm chí nhiều trường hợp, đôi trai gái còn chưa hề biết mặt nhau. Vì vậy, vai trò của ông mai, bà mối rất quan trọng. Ông bà mai là cầu nối giữa hai gia đình, là người kết duyên cho đôi trai gái, có ảnh hưởng không nhỏ tới lễ thành hôn cũng như cuộc sống vợ chồng sau này. Tuy nhiên, hiện nay, sự chắp nối của ông mai, bà mối không còn như trước nữa. Xuất phát từ chỗ đôi trai gái tự tìm hiểu nhau để đi đến hôn nhân nên cha mẹ, họ hàng chỉ đóng vai trò đại diện để thưa chuyện, đặt quan hệ cho hai bên gia đình, còn quyền quyết định vẫn thuộc về con cái. Hiện nay một số gia đình còn bỏ qua, không thực hiện riêng lễ thăm dò nữa mà tiến hành lễ ăn hỏi luôn, nhất là những gia đình ở xa nhau về địa lý, đi lại khó khăn.

Thay đổi về đồ sính lễ, phương thức đón dâu
Không chỉ lược bỏ một số nghi lễ trong thủ tục cưới hỏi mà ngay cả đồ sính lễ trong lễ hỏi, lễ cưới cũng có sự giản lược đi rất nhiều. Xuất phát từ quan niệm gả bán nên hôn nhân truyền thống của người Tày trước đây ở một góc độ nào đó mang tính chất mua bán khá rõ. Vì thế người Tày cũng có tục thách cưới rất cao.

Ngày nay, do điều kiện kinh tế, xã hội có nhiều thay đổi nên lễ ăn hỏi cũng được đơn giản hóa hơn trước về phương thức tiến hành, lễ vật. Thường đồ lễ ăn hỏi gồm có 2 chai rượu, 2 cỗ xôi, 2 con gà trống, trầu cau, kèm theo 2 triệu đồng tiền mặt.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi trong tục lệ thách cưới của người Tày ở Cao Lộc hiện nay. Thứ nhất, do trước đây, khi cô gái về nhà chồng phải sắm sửa rất nhiều đồ đạc: chăn, màn, gối, đệm, nồi, niêu, bát, đĩa… để mang theo, nên cần có một khoản tiền tương đối để chi tiêu. Hiện nay, phần lớn đồ đạc là do nhà trai tự sắm nên nhà gái lấy tiền ít đi. Tuy nhiên,có lẽ nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến sự thay đổi trong tục thách cưới của người Tày nằm ở sự thay đổi trong nhận thức. Bởi vì, nhà gái hiểu được rằng, việc thách cưới càng nặng bao nhiêu thì sau này chính con gái họ sẽ phải là người gánh chịu hậu quả, nhất là đối với những gia đình nhà trai khó khăn về kinh tế.

Đoàn đón dâu trong đám cưới của người Tày

Quá trình cư trú xen kẽ, sự giao lưu giữa các tộc người đã làm xuất hiện nhiều cuộc hôn nhân giữa người Tày với dân tộc khác. Để phù hợp với tập quán, đặc trưng văn hóa của từng dân tộc, nhiều thủ tục mang nặng tính lễ nghi đã được giản lược. Trước đây, từ khi ăn hỏi đến đám cưới chính thức phải cách chừng 2, 3 năm; nhưng ngày nay, sau nghi thức ăn hỏi, nếu chọn được ngày tốt thì khoảng 2, 3 tháng sau có thể tổ chức lễ cưới chính thức luôn. Thậm chí, có nhiều trường hợp làm theo người Kinh, sáng tổ chức lễ ăn hỏi, chiều tổ chức lễ cưới, đón dâu luôn, hiếm có trường hợp nào để đến một vài năm sau.

Cách thức tổ chức một lễ cưới của người Tày ở Cao Lộc đã lược bỏ đi nhiều thủ tục rườm rà, không còn phù hợp với sự phát triển của xã hội đương đại, theo hướng tích cực, tiến bộ, hiện đại hơn. Tuy nhiên, có thể thấy sự biến đổi cũng làm mất đi nhiều nét đẹp trong tập quán cưới xin truyền thống. Chẳng hạn, số của cải thách cưới được nhà trai chuẩn bị rất kỳ công, chu đáo cũng là sự bày tỏ lòng biết ơn, trân trọng công lao sinh thành, nuôi dưỡng của nhà gái, để nhà trai có thêm một sức lao động mới, một người con với vai trò vô cùng quan trọng, đặc biệt: sinh con, đẻ cái để nối dõi dòng họ. Trong đó, lễ vật nhà trai mang sang nhà gái nhất thiết phải có một tấm vải tặng mẹ vợ, gọi là rằm khấu, để trả công nuôi dưỡng của bà đối với con gái. Thường thì bà mẹ không sử dụng tấm vải đó may trang phục mà đem nhuộm, cất đi, đợi khi người con gái sinh con đầu lòng thì cắt ra để làm tã cho cháu. Hiện nay, phong tục này đã không còn. Thay vào đó, lễ vật mang sang nhà gái được quy ra tiền. Điều đó phần nào làm mất đi những giá trị nhân văn ẩn chứa đằng sau những tập quán truyền thống.

Đăng ký kết hôn trước khi cưới
Khác với việc tổ chức đám cưới là hình thức công khai hóa, hợp thức hóa rộng rãi sự chung sống chính thức của đôi nam nữ trước họ hàng, những người xung quanh, đăng ký kế thôn là việc đôi nam nữ xác lập quan hệ hôn nhân theo quy định của pháp luật, là sự chính thức hóa quan hệ vợ chồng trước pháp luật.

Cùng với việc tổ chức cưới hỏi thì đăng ký kết hôn dần trở thành một trong các thủ tục không thể thiếu. Điều đó chứng tỏ sự gắn kết giữa ý thức cộng đồng, ý thức về sự tôn trọng luật pháp của người dân ngày càng được nâng lên đáng kể. Những năm gần đây, nhất là từ sau đổi mới, các mối quan hệ được mở rộng, cuộc sống người dân ngày càng có nhiều tình huống cần đến sự trợ giúp pháp lý, người dân ngày càng nhận thức đầy đủ hơn việc thừa nhận của pháp luật với vấn đề kết hôn hợp pháp.

Thực tế cho thấy, có nhiều cặp không đăng ký kết hôn khi cưới, sau nhiều năm chung sống với nhau, mâu thuẫn xảy ra thì chính quyền không có nhiệm vụ hòa giải, pháp luật cũng không thể giải quyết, hầu hết do họ hàng hai bên tác động. Người Tày cho rằng, trong trường hợp đó, người phụ nữ bao giờ cũng chịu thiệt thòi. Do đó, họ nhận thức được việc đăng ký kết hôn giúp họ đảm bảo đủ quyền lợi, trách nhiệm trong cuộc sống vợ chồng. Sự kết hợp giữa nghi thức phong tục với nghi thức pháp luật trong tổ chức cưới hỏi là một trong những sự biến đổi tích cực, tiến bộ trong hôn nhân và cưới xin của người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn hiện nay.

Quy mô tổ chức cưới hỏi
Quy mô tổ chức đám cưới của người Tày ngày càng lớn, không chỉ gia tăng về số lượng mâm cỗ mà chất lượng các món ăn trong cỗ cưới cũng ngày càng được người dân quan tâm, đầu tư hơn. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc quy mô tổ chức đám cưới ngày càng lớn, phần lớn các ý kiến đều thống nhất cho rằng do hiện nay kinh tế phát triển, người dân có điều kiện, phương tiện vật chất để tổ chức cỗ bàn đàng hoàng hơn, sang trọng hơn. Ngoài ra, quá trình giao lưu, buôn bán, làm ăn, công tác… người dân nói chung, thanh niên nam nữ Tày nói riêng cũng có cơ hội mở rộng hơn các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, tâm lý cho bằng anh, bằng em hay phú quý sinh lễ nghĩacũng vẫn chiếm tỷ lệ tương đối. Nguyên nhân vì mục đích kinh tế cũng có nhưng rất ít.

Như vậy, quy mô tổ chức đám cưới của người Tày ở Cao Lộc ngày càng lớn hơn, nhiều hình thức tổ chức đám cưới trong xã hội hiện đại, nhất là của người Kinh đã, đang được người Tày tiếp thu, đưa vào trong phong tục cưới hỏi của dân tộc mình.

Quà mừng trong đám cưới
Theo phong tục, trong đám cưới, khách mời đến dự thường mang theo một món quà, có thể là hiện vật hoặc là tiền, với ý nghĩa chúc phúc, chia sẻ niềm vui với cặp vợ chồng trẻ. Có thể nói, quà mừng trong đám cưới là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người Tày. Đây là một phong tục đẹp, lâu đời, ẩn chứa những giá trị văn hóa rất đặc trưng.

Về giá trị của tiền mừng, tùy theo từng giai đoạn, theo điều kiện kinh tế, mối quan hệ thân tình giữa khách với gia chủ. Thông thường hiện nay, tiền mừng đám cưới của người Tày ở Cao Lộc phổ biến ở mức 200.000 đồng trở lên. Nếu người trong cùng dòng họ hoặc thân thiết hơn có thể 400.000 - 500.000 đồng.

Khi so sánh về giá trị của quà mừng trong đám cưới với chi phí bỏ ra tổ chức đám cưới, kết quả nghiên cứu cho thấy nếu chỉ tính riêng chi phí cho việc tổ chức ăn uống thì tiền mừng của khách mời đủ để trang trải. Tuy nhiên, để tổ chức đám cưới, gia đình còn phải chi thêm nhiều các dịch vụ khác: thuê phông bạt, loa đài, thuê áo cưới, xe đưa đón dâu, bàn ghế, trang trí, chụp ảnh… nên tiền mừng không thể đủ, nhất là với nhà trai còn phải chi thêm một khoản mang sang nhà gái.

Ẩm thực
Trong đám cưới của người Tày hiện nay, về cơ bản vẫn giữ được các món ăn truyền thống đặc biệt của dân tộc mình như khâu nhục, lợn quay, vịt quay, xôi màu… nhưng các món này cũng đều có ảnh hưởng mới từ Trung Quốc. Chẳng hạn như món khâu nhục xuất hiện thêm chất phụ gia nhập từ Trung Quốc mà đồng bào gọi là slao phẩu nhi, đã làm cho mùi vị món ăn khác hẳn so với trước đây. Món nước chấm xưa kia của đồng bào đã thay thế bằng xì dầu ngoại nhập, thậm chí có món ăn hoàn toàn nhập từ Trung Quốc như món ca ra thầu (rau sấy khô đóng hộp).

Một số món ăn truyền thống của người Tày gắn với nông nghiệp nương rẫy, săn bắt hái lượm đã, đang mai một dần, đó là các loại bánh trứng kiến (được làm từ trứng, đúng hơn là nhộng của loài kiến đen vào mùa xuân thường làm tổ đẻ trên các ngọn cây trong rừng), bánh bột đao, bột báng, bánh củ mài. Nhiều món ăn mới cũng xuất hiện do sống hội nhập, đan xen với các tộc người khác, chủ yếu là người Kinh. Trong các món ăn, thịt lợn quay, khâu nhục vẫn là món không thể thiếu được trong đám cưới người Tày. Ngoài ra, hiện nay còn có thêm những món như giò chả, gà, vịt, xào thập cẩm, tôm, nem, thịt đông, khoai tây chiên, canh bóng, mọc…

Trong cỗ cưới của người Tày hiện nay, không chỉ có 4, 5 món luộc, xào như trước mà mỗi mâm đã có từ 8 - 10 món. Cỗ cưới đã có nhiều cải thiện với nhiều món ăn ngon miệng, bổ dưỡng, cách chế biến cũng như bài trí món ăn. Họ không chỉ sử dụng những nguyên liệu sẵn có từ tự nhiên mà có thể mua thêm nhiều gia vị đóng sẵn như miến, hạt tiêu, tương ớt, phẩm màu cũng như các chất bảo quản khác. Cách chế biến ngoài xào, luộc thì có thêm các món nướng, hấp cách thủy, kho... giống như của người Kinh. Ngoài ra, trong mâm cỗ còn có thêm hoa quả để cho khách tráng miệng sau khi ăn.

Còn có cả dịch vụ tổ chức quay lợn để sử dụng trong đám cưới, thuê người nấu cỗ, mang đến tận nhà. Các loại bánh kẹo công nghiệp, đồ hộp, nước có ga cũng được đồng bào sử dụng phổ biến. Thuốc lá được sử dụng loại cuốn máy sẵn có trên thị trường. Bên cạnh loại rượu gạo tự nấu truyền thống, các đồ uống công nghiệp cũng xuất hiện. Trên các mâm cúng, xuất hiện nhiều bánh kẹo nhập khẩu từ nước ngoài.

Trang phục cô dâu, chú rể trong đám cưới

Trang phục là yếu tố thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, dễ nhận thấy nhất trong một tập hợp đa tộc người. Nhưng đó cũng là yếu tố văn hóa dễ biến đổi nhất trong xu thế đô thị hóa, hiện đại hóa như hiện nay.

Việc cô dâu, chú rể mặc trang phục truyền thống trong ngày cưới hiện nay giảm dần. Các đám cưới của người Tày ở huyện Cao Lộc cho thấy, hiện nay, hầu hết chú rể mặc quần âu, áo sơ mi, thắt cà vạt, cài hoa; cô dâu mặc váy trắng, tóc quấn xoăn, trang điểm, tay cầm hoa theo xu hướng hiện đại. Những người tham gia lễ cưới hiện nay cũng có sự thay đổi trong cách ăn mặc. Họ thích mặc áo dài, váy như người Kinh để đi dự đám cưới cho đẹp, hiện đại. Một yếu tố khác nữa là nhiều người quan niệm mặc trang phục truyền thống lạc hậu, không đẹp, không lịch sự. Chính vì thế, người Tày từ lâu đã mặc quần áo như người Kinh.

Có thể thấy, trang phục cưới của cô dâu, chú rể là một trong những lĩnh vực biến đổi mạnh mẽ nhất, dễ nhận ra nhất. Xu hướng Âu hóa thông qua sự tiếp nhận của người Kinh đã tác động mạnh mẽ đến văn hóa Tày. Xu hướng này được giới trẻ hào hứng đón nhận. Giờ đây, nếu chỉ nhìn vào bộ trang phục cô dâu, chú rể thì không thể phân biệt đâu là đám cưới của người Tày, đâu là đám cưới người Kinh.

Của hồi môn của cô dâu, chú rể

Cũng như nhiều dân tộc khác, theo phong tục truyền thống của người Tày, khi lập gia đình, con cái thường được cha mẹ trao cho của hồi môn như là một chút tài sản để làm vốn liếng khi bước vào cuộc sống gia đình. Của hồi môn có thể là tiền, vàng, vật dụng gia đình, gia súc, đất đai, nhà cửa… Thực tế cho thấy, cuộc sống của đồng bào các dân tộc miền núi nói chung, trong đó có người Tày ở Cao Lộc nói riêng còn rất khó khăn, nên khi con cái xây dựng gia đình, bố mẹ không có nhiều tài sản có giá trị cho làm của hồi môn. Chủ yếu, nếu con gái đi lấy chồng thì cho một vài chỉ vàng hoặc ít tiền. Con trai lấy vợ thì ngoài vàng, ít tiền thì bố mẹ sắm sửa cho một ít đồ dùng trong gia đình, phương tiện đi lại...

Thời gian gần đây, của hồi môn mà cô dâu, chủ rể nhận được bằng vàng, tiền mặt tăng lên đáng kể. Của hồi môn là vật dụng gia đình tuy có giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ đáng kể. Từ năm 1987 trở lại đây, gia súc không còn là của hồi môn của cha mẹ cho con cái khi xây dựng gia đình nữa.

Quá trình hội nhập đang làm biến đổi mạnh mẽ tập quán cưới xin truyền thống của người Tày ở Cao Lộc trên tất cả các phương diện: quy mô, hình thức, nội dung tổ chức cưới hỏi. Một trong những biểu hiện dễ thấy nhất là lược bớt các thủ tục, nghi lễ rườm rà không còn phù hợp với xã hội hiện đại. Ngoài ra, xu hướng nổi trội trong tập quán cưới xin của người Tày ở Lạng Sơn hiện nay là tiếp thu, du nhập nhiều hình thức, nghi lễ cưới hỏi của các dân tộc khác, nhất là của người Kinh. Có thể nói, đây là sự biến đổi theo xu hướng tiến bộ, tích cực, hiện đại. Tuy vậy, dù tập quán cưới xin của người Tày có biến đổi đến mức độ nào thì vấn đề bảo tồn những giá trị tốt đẹp, làm cốt lõi cho bản sắc văn hóa tộc người vẫn cần được quan tâm gìn giữ, phát huy để văn hóa Tày không bị pha loãng, mai một, mà còn phát triển bền vững trong xã hội đương đại.
 GIANG THỊ HUYỀN

Lễ cưới của dân tộc Tày (Đàm Minh Phiếu)

Nhà trai chuyển bị đồ lễ sang nhà gái để bàn chuyện.

Trong lễ ăn hỏi, nhà trai sẽ mang đồ lễ được chuẩn bị sẵn để sang nhà gái bàn chuyện trăm năm. Theo phong tục lễ hỏi của dân tộc Tày, đồ lễ bao gồm một đôi gà sống thiến, hai chai rượu, bốn cân gạo nếp. Trong đám hỏi đó, nhà gái sẽ thách cưới và nhà trai về chuẩn bị đủ đồ lễ đó.

Tuy nhiên, tùy vào hoàn cảnh của bên nhà trai, thời gian chuyển bị cho lễ hỏi đến lễ cưới có khi kéo dài tới 2-3 năm. Thường trước khi diễn ra lễ cưới một hôm, nhà trai phải mang đầy đủ lễ được chuẩn bị sang nhà gái như đã thỏa thuận. Ngoài những sính lễ đó, khi về nhà chồng, cô dâu cũng phải chuẩn bị trước gối tặng cho bố mẹ, ông bà, bác bá ruột… Còn chú rể phải tặng vải cho mẹ chồng để báo đáp công nuôi dưỡng con gái, nếu chị gái cô dâu chưa có chồng, chú rể sẽ phải chuẩn bị thêm vải để tặng cho chị gái, đền ơn đã bế vợ mình khi còn nhỏ.
Đoàn đón dâu của dân tộc Tày cũng mang nhiều nét đặc sắc. Quan làng là người dẫn đầu đoàn rước, giữ vai trò là người đại diện cho bên nhà trai, bố mẹ không trực tiếp đi hỏi vợ cho con trai.

Quan làng giữ vai trò là người đại diện, dẫn đầu đoàn rước của nhà trai sang nhà gái.

Đặc biệt, đoàn nhà trai phải trải qua nhiều thử thách và phải đối đáp lại bằng các câu hát văn thơ. Sau khi nhà trai nhà gái đối đáp với nhau, cổng được mở, nhà trai được bước đến cầu thang nhà sàn. Khi đó, dưới cầu thang sẽ có rượu để thay nước rửa chân. Điều này có nhiều ý kiến giải thích khác nhau, người cho rằng nó là một nhã ý về “ môn đăng hộ đối”, một ý khác về khinh thường nhà nghèo, nhưng nó cũng có ý nghĩa đề cao giá trị quý báu của giọt rượu.

Sau đó, quan làng dẫn chú rể tới bàn thờ tổ tiên, làm lễ trình với tổ tiên. Quan làng sẽ dâng lễ vật lên bàn thờ và xin phép đón dâu về nhà chồng.
nnn

Lễ trình tổ tiên là một nghi lễ bắt buộc trong đám cưới người Tày ở Thái Nguyên.

Sau những thử thách đó, nhà trai bước vào trong nhà. Khi ấy, Quan làng lại hát một câu “ xin trải chiếu” thì mới được bên nhà gái mang chiếu ra trải. Sau đó các cô gái nhà gái sẽ mang trầu cau ra mời bên nhà trai, nhà trai có lời hát cám ơn bên nhà gái.

Khi đã đến giờ đón dâu, một lần nữa, quan làng lại hát bài cảm ơn nhà gái đã đón tiếp chu đáo và xin phép đón dâu về nhà chồng.

Cũng như phong tục của nhiều dân tộc khác, ba ngày sau khi diễn ra lễ cưới, đôi vợ chồng trẻ mang lễ vật về nhà gái làm lễ lại mặt. Lễ vật gồm có một đôi gà và hai lít rượu. Sau lễ lại mặt, đôi vợ chồng trẻ quay lại nhà trai và bắt đầu cuộc sống lứa đôi.

Đám cưới của người dân tộc Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên chứa nhiều nghi thức chặt chẽ, nhưng giàu tính nhân văn qua các câu đối, câu hát giữa nhà trai, nhà gái. Ẩn sâu sau những lời hát bình dị, khiêm nhường là những ý tứ sắc xảo, sâu xa… Tất cả những nghi thức truyền thống tốt đẹp đó đã được tái hiện, gói gọn trong khuôn viên Nhà Tày tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam.
dấm

Quan viên hai họ chúc mừng hạnh phúc đôi bạn trẻ.

Được biết, trong khuôn khổ tuần “Đại đoàn kết các dân tộc-Di sản văn hóa Việt Nam 2016” cuộc sống hàng ngày của đồng bào tám dân tộc (Tày, Thái, Mường, Dao, Khơ Mú, Ba Na, Ê Đê, Khmer) với các hoạt động như trình diễn nghề thủ công truyền thống, chế tác công cụ lao động, biểu diễn dân ca, dân vũ, giới thiệu trò chơi dân gian… cũng được tái hiện lại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam.
Các hoạt động này nhằm tôn vinh, quảng bá, tuyên truyền các giá trị di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, góp phần tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn 54 dân tộc tại " Ngôi nhà chung" Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam.
 Đàm Minh Phiếu
Nhà trai chuyển bị đồ lễ sang nhà gái để bàn chuyện.

Trong lễ ăn hỏi, nhà trai sẽ mang đồ lễ được chuẩn bị sẵn để sang nhà gái bàn chuyện trăm năm. Theo phong tục lễ hỏi của dân tộc Tày, đồ lễ bao gồm một đôi gà sống thiến, hai chai rượu, bốn cân gạo nếp. Trong đám hỏi đó, nhà gái sẽ thách cưới và nhà trai về chuẩn bị đủ đồ lễ đó.

Tuy nhiên, tùy vào hoàn cảnh của bên nhà trai, thời gian chuyển bị cho lễ hỏi đến lễ cưới có khi kéo dài tới 2-3 năm. Thường trước khi diễn ra lễ cưới một hôm, nhà trai phải mang đầy đủ lễ được chuẩn bị sang nhà gái như đã thỏa thuận. Ngoài những sính lễ đó, khi về nhà chồng, cô dâu cũng phải chuẩn bị trước gối tặng cho bố mẹ, ông bà, bác bá ruột… Còn chú rể phải tặng vải cho mẹ chồng để báo đáp công nuôi dưỡng con gái, nếu chị gái cô dâu chưa có chồng, chú rể sẽ phải chuẩn bị thêm vải để tặng cho chị gái, đền ơn đã bế vợ mình khi còn nhỏ.
Đoàn đón dâu của dân tộc Tày cũng mang nhiều nét đặc sắc. Quan làng là người dẫn đầu đoàn rước, giữ vai trò là người đại diện cho bên nhà trai, bố mẹ không trực tiếp đi hỏi vợ cho con trai.

Quan làng giữ vai trò là người đại diện, dẫn đầu đoàn rước của nhà trai sang nhà gái.

Đặc biệt, đoàn nhà trai phải trải qua nhiều thử thách và phải đối đáp lại bằng các câu hát văn thơ. Sau khi nhà trai nhà gái đối đáp với nhau, cổng được mở, nhà trai được bước đến cầu thang nhà sàn. Khi đó, dưới cầu thang sẽ có rượu để thay nước rửa chân. Điều này có nhiều ý kiến giải thích khác nhau, người cho rằng nó là một nhã ý về “ môn đăng hộ đối”, một ý khác về khinh thường nhà nghèo, nhưng nó cũng có ý nghĩa đề cao giá trị quý báu của giọt rượu.

Sau đó, quan làng dẫn chú rể tới bàn thờ tổ tiên, làm lễ trình với tổ tiên. Quan làng sẽ dâng lễ vật lên bàn thờ và xin phép đón dâu về nhà chồng.
nnn

Lễ trình tổ tiên là một nghi lễ bắt buộc trong đám cưới người Tày ở Thái Nguyên.

Sau những thử thách đó, nhà trai bước vào trong nhà. Khi ấy, Quan làng lại hát một câu “ xin trải chiếu” thì mới được bên nhà gái mang chiếu ra trải. Sau đó các cô gái nhà gái sẽ mang trầu cau ra mời bên nhà trai, nhà trai có lời hát cám ơn bên nhà gái.

Khi đã đến giờ đón dâu, một lần nữa, quan làng lại hát bài cảm ơn nhà gái đã đón tiếp chu đáo và xin phép đón dâu về nhà chồng.

Cũng như phong tục của nhiều dân tộc khác, ba ngày sau khi diễn ra lễ cưới, đôi vợ chồng trẻ mang lễ vật về nhà gái làm lễ lại mặt. Lễ vật gồm có một đôi gà và hai lít rượu. Sau lễ lại mặt, đôi vợ chồng trẻ quay lại nhà trai và bắt đầu cuộc sống lứa đôi.

Đám cưới của người dân tộc Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên chứa nhiều nghi thức chặt chẽ, nhưng giàu tính nhân văn qua các câu đối, câu hát giữa nhà trai, nhà gái. Ẩn sâu sau những lời hát bình dị, khiêm nhường là những ý tứ sắc xảo, sâu xa… Tất cả những nghi thức truyền thống tốt đẹp đó đã được tái hiện, gói gọn trong khuôn viên Nhà Tày tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam.
dấm

Quan viên hai họ chúc mừng hạnh phúc đôi bạn trẻ.

Được biết, trong khuôn khổ tuần “Đại đoàn kết các dân tộc-Di sản văn hóa Việt Nam 2016” cuộc sống hàng ngày của đồng bào tám dân tộc (Tày, Thái, Mường, Dao, Khơ Mú, Ba Na, Ê Đê, Khmer) với các hoạt động như trình diễn nghề thủ công truyền thống, chế tác công cụ lao động, biểu diễn dân ca, dân vũ, giới thiệu trò chơi dân gian… cũng được tái hiện lại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam.
Các hoạt động này nhằm tôn vinh, quảng bá, tuyên truyền các giá trị di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, góp phần tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn 54 dân tộc tại " Ngôi nhà chung" Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam.
 Đàm Minh Phiếu