
Việt Nam, nơi quần tụ sinh sống của 54 dân tộc anh em. 
Mỗi dân tộc đều có những sắc thái riêng, độc đáo. Và một trong những điểm nhấn 
tạo nên sắc thái riêng của mỗi dân tộc chính là bộ trang phục truyền thống của 
đồng bào. Bộ trang phục truyền thống của mỗi dân tộc có kiểu dáng, màu sắc và 
cách trang trí hoa văn khác nhau. Tuy dân số đông, địa bàn phân tán nhưng dân 
tộc Tày lại là một cộng đồng thuần nhất với một ý thức rõ rệt điều đó thể hiện 
qua bộ trang phục truyền thống với sắc màu chủ yếu là màu chàm.
Người Tày là một trong 54 dân tộc ở Việt 
Nam, nhóm địa phương Pa dí, Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao, thuộc hệ ngôn ngữ 
Thái-Kadai sinh sống chủ yếu ở vùng miền núi Đông Bắc nước ta. Người Tày trước 
đây hay được gọi là người Thổ (tuy nhiên tên gọi này hiện nay được dùng để chỉ 
một dân tộc khác. Người Tày có dân số đông thứ 2 ở Việt Nam sau dân tộc 
Kinh

Cái độc đáo đáng quan tâm của trang phục 
Tày không phải là lối tạo dáng mà là lối dùng màu chàm phổ biến, đồng nhất trên 
trang phục nam và nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên trong áo ngoài màu chàm. 
Nhiều tộc người cũng dùng màu chàm nhưng còn gia công trang trí các màu khác 
trên trang phục, ở người Tày hầu như các màu ngũ sắc được dùng trong hoa văn mặt 
chăn hay các tấm thổ cẩm.
Truyền thuyết dân gian của đồng bào Tày kể 
về sự tích cây chàm gắn liền với mối tình chung thủy của đôi trai gái: Thuở ấy 
có một cô gái con nhà nghèo, mồ côi cha từ nhỏ mà mẹ lại mù lòa. Nàng phải đi 
làm thuê, làm mướn tần tảo mới có bữa cơm, bữa cháo qua ngày. Khi nàng lớn lên 
thì người mẹ thân yêu cũng qua đời, để lại một mình nàng cô đơn giữa cuộc đời. 
Một hôm, có một chàng trai ăn mặc rách rưới đến nhà nàng xin ăn. Vì nhà nghèo 
không có gì cho kẻ ăn mày, nàng mời khách vào nhà ngồi đợi rồi ra đi cắt bộ tóc 
dài của mình để đổi lấy đồ ăn về cho kẻ ăn mày cùng 
ăn.
Thời gian trôi qua, bỗng một hôm có đám về 
hỏi nàng. Bà mối cho biết, người đến hỏi nàng làm vợ chính là chàng ăn mày nọ. 
Sau bữa cơm nàng cho ăn, chàng biết nàng đã cắt bộ tóc dài của mình để đổi lấy 
bữa ăn cho chàng, nên chàng cảm phục tình cảm của nàng. Nàng nhận lời và họ 
chung sống bên nhau hạnh 
phúc.
Bỗng đất nước bị giặc Hung nô xâm lược, là 
phận trai, chàng phải đeo gươm, giáo lên đường đánh giặc giữ nước, một mình nàng 
ở nhà quán xuyến mọi việc gia đình. Chiến tranh kéo dài, biết bao mùa hoa đã nở, 
biết bao mùa chim én đã làm tổ mà nàng vẫn mong ngóng chồng trở về trong sự cô 
đơn, mệt mỏi. Thế rồi nàng quyết định theo hướng chiến trận ra đi tìm chồng. 
Nàng đi không biết qua bao nhiêu bản, bao nhiêu núi, xuyên qua bao nhiêu rừng 
già… Sự nhớ nhung, mệt mỏi khiến nàng ngủ thiếp đi và ra đi mãi 
mãi.
Dân làng biết rất cảm phục tấm lòng chung 
thủy của nàng, định chôn cất nàng đến nơi nàng yên nghỉ thì thấy mọc lên một cây 
lạ với mùi thơm kì lạ. Dân làng hiểu rằng, cây lạ đó là hiện thân phần xác của 
nàng, mùi thơm từ cây đó tỏa ra là hiện thân của lòng chung thủy của nàng. Cây 
đó chính là cây chàm mà ngày nay đồng bào dùng để nhuộm quần áo 
mặc.
Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ 
vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc 
váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc 
áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành 
chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như 
người Thái ở Mai Châu (Hoà 
Bình).
Y phục của nam giới Tày gồm loại áo cách 4 
thân (slửa cỏm), áo dài 5 thân, khăn đội đầu, quần và giày vải. Áo cánh 4 thân 
là loại xẻ ngực, cổ tròn cao, không cầu vai, xẻ tà, cài cúc vải (7 cái) và hai 
túi nhỏ phía dưới 2 thân trước. Trong dịp tết, lễ, hội nam giới mặc thêm loại áo 
dài 5 thân xẻ nách phải, đơm cúc vải hay cúc đồng. Quần (khóa) cũng làm bằng vải 
sợi bông nhuộm chàm như áo, cắt theo kiễu quần đũng chéo, độ choãng vừa phải dài 
tới mắt cá chân. Quần có cạp rộng không luồn rút, khi mặc có dây buộc ngoài. 
Khăn đội đầu màu chàm (30cm x 200cm) Quấn trên đầu theo lối chữ 
nhân.

Y phục của nữ thường gồm áo cánh, áo dài 
năm thân, quần váy, thắt lưng, khăn đội đầu, hài vải. Áo cánh là loại 4 thân xẻ 
ngực, cổ tròn, có hai túi nhỏ phía dưới hai vạt trước, thường được cắt may bằng 
vải chàm hoặc trắng. Khi đi hội thường được mặt lót phía trong áo dài. Vì vậy 
người Tày còn được gọi là cần slửa khao (người áo trắng) để phân biệt với người 
Nùng chỉ dùng màu chàm. Áo dài cũng là loại 5 thân, xẻ nách phải cài cúc vải 
hoặc đồng, cổ tròn ống tay và thân hẹp có 
eo.
Bộ quần áo của dân tộc Tày bao gồm: khăn, 
áo, quần, dây lưng, tạp dề, guốc hoặc dép. Phụ nữ Tày thường để tóc dài, đội 
khăn. Khăn là loại khăn vuông gấp chéo kiểu “mỏ quạ”, đội lên đầu, thắt ở sau 
gáy, tương tự như kiểu đội khăn mỏ quạ của phụ nữ 
Kinh.
Áo của phụ nữ thường là loại áo năm thân, 
trong đó bốn thân dài và một thân hụt nằm ở phía ngực bên phải, xẻ chéo từ dưới 
cổ sang nách bên phải, áo phụ nữ Tày thường dài đến quá bắp chân, thân áo và tay 
bó hẹp lấy 
người.
Trước đây phụ nữ mặc váy, nhưng gần đây phổ 
biến mặc quần, là quần chân què, cát hình lá tọa, đũng rộng có thể cử động thoải 
mái trong mọi tư thế lao động. Đồng bào thường đeo thắt lưng được dệt bằng vải 
thủ công, rộng khoảng 40cm gấp làm tư, chiều dài đủ quấn quanh thân người hai 
vòng, buộc lại ở phía sau, để buông dải đuôi xuống sau 
lưng.
Nón của phụ nữ Tày khá độc đáo. Nón bằng 
nan tre lợp lá có mái nón bằng và rộng. Đồ trang sức được cả nam và nữ thích sử 
dụng đó là vòng cổ, chân, tay..., trẻ em đeo đồ trang sức bằng bạc để trừ tà ma 
và tránh 
gió.
Quần áo nam giới đơn giản hơn áo ngắn, xẻ ngực, cài cúc 
trước ngực và thường cài 5 cúc. Trang phục của nam giới có quần 
chân què, đũng rộng, cạp lá tọa, áo ngắn cũng may năm thân, cổ đứng. Nam cũng có 
áo dài như cái áo ngắn kéo dài vạt xuống quá đầu 
gối.
Nét đặc sắc trên trang phục người Tày lại 
được thể hiện ở những mẫu hoa văn trên vải. Sự pha trộn phối màu một cách tinh 
tế và hợp lí tạo đồ họa trên mặt vải khiến cho trang phục của người Tày trở nên 
sinh động và ấn tượng.
 Hồng Phượng

Việt Nam, nơi quần tụ sinh sống của 54 dân tộc anh em. 
Mỗi dân tộc đều có những sắc thái riêng, độc đáo. Và một trong những điểm nhấn 
tạo nên sắc thái riêng của mỗi dân tộc chính là bộ trang phục truyền thống của 
đồng bào. Bộ trang phục truyền thống của mỗi dân tộc có kiểu dáng, màu sắc và 
cách trang trí hoa văn khác nhau. Tuy dân số đông, địa bàn phân tán nhưng dân 
tộc Tày lại là một cộng đồng thuần nhất với một ý thức rõ rệt điều đó thể hiện 
qua bộ trang phục truyền thống với sắc màu chủ yếu là màu chàm.
Người Tày là một trong 54 dân tộc ở Việt 
Nam, nhóm địa phương Pa dí, Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao, thuộc hệ ngôn ngữ 
Thái-Kadai sinh sống chủ yếu ở vùng miền núi Đông Bắc nước ta. Người Tày trước 
đây hay được gọi là người Thổ (tuy nhiên tên gọi này hiện nay được dùng để chỉ 
một dân tộc khác. Người Tày có dân số đông thứ 2 ở Việt Nam sau dân tộc 
Kinh

Cái độc đáo đáng quan tâm của trang phục 
Tày không phải là lối tạo dáng mà là lối dùng màu chàm phổ biến, đồng nhất trên 
trang phục nam và nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên trong áo ngoài màu chàm. 
Nhiều tộc người cũng dùng màu chàm nhưng còn gia công trang trí các màu khác 
trên trang phục, ở người Tày hầu như các màu ngũ sắc được dùng trong hoa văn mặt 
chăn hay các tấm thổ cẩm.
Truyền thuyết dân gian của đồng bào Tày kể 
về sự tích cây chàm gắn liền với mối tình chung thủy của đôi trai gái: Thuở ấy 
có một cô gái con nhà nghèo, mồ côi cha từ nhỏ mà mẹ lại mù lòa. Nàng phải đi 
làm thuê, làm mướn tần tảo mới có bữa cơm, bữa cháo qua ngày. Khi nàng lớn lên 
thì người mẹ thân yêu cũng qua đời, để lại một mình nàng cô đơn giữa cuộc đời. 
Một hôm, có một chàng trai ăn mặc rách rưới đến nhà nàng xin ăn. Vì nhà nghèo 
không có gì cho kẻ ăn mày, nàng mời khách vào nhà ngồi đợi rồi ra đi cắt bộ tóc 
dài của mình để đổi lấy đồ ăn về cho kẻ ăn mày cùng 
ăn.
Thời gian trôi qua, bỗng một hôm có đám về 
hỏi nàng. Bà mối cho biết, người đến hỏi nàng làm vợ chính là chàng ăn mày nọ. 
Sau bữa cơm nàng cho ăn, chàng biết nàng đã cắt bộ tóc dài của mình để đổi lấy 
bữa ăn cho chàng, nên chàng cảm phục tình cảm của nàng. Nàng nhận lời và họ 
chung sống bên nhau hạnh 
phúc.
Bỗng đất nước bị giặc Hung nô xâm lược, là 
phận trai, chàng phải đeo gươm, giáo lên đường đánh giặc giữ nước, một mình nàng 
ở nhà quán xuyến mọi việc gia đình. Chiến tranh kéo dài, biết bao mùa hoa đã nở, 
biết bao mùa chim én đã làm tổ mà nàng vẫn mong ngóng chồng trở về trong sự cô 
đơn, mệt mỏi. Thế rồi nàng quyết định theo hướng chiến trận ra đi tìm chồng. 
Nàng đi không biết qua bao nhiêu bản, bao nhiêu núi, xuyên qua bao nhiêu rừng 
già… Sự nhớ nhung, mệt mỏi khiến nàng ngủ thiếp đi và ra đi mãi 
mãi.
Dân làng biết rất cảm phục tấm lòng chung 
thủy của nàng, định chôn cất nàng đến nơi nàng yên nghỉ thì thấy mọc lên một cây 
lạ với mùi thơm kì lạ. Dân làng hiểu rằng, cây lạ đó là hiện thân phần xác của 
nàng, mùi thơm từ cây đó tỏa ra là hiện thân của lòng chung thủy của nàng. Cây 
đó chính là cây chàm mà ngày nay đồng bào dùng để nhuộm quần áo 
mặc.
Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ 
vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc 
váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc 
áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành 
chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như 
người Thái ở Mai Châu (Hoà 
Bình).
Y phục của nam giới Tày gồm loại áo cách 4 
thân (slửa cỏm), áo dài 5 thân, khăn đội đầu, quần và giày vải. Áo cánh 4 thân 
là loại xẻ ngực, cổ tròn cao, không cầu vai, xẻ tà, cài cúc vải (7 cái) và hai 
túi nhỏ phía dưới 2 thân trước. Trong dịp tết, lễ, hội nam giới mặc thêm loại áo 
dài 5 thân xẻ nách phải, đơm cúc vải hay cúc đồng. Quần (khóa) cũng làm bằng vải 
sợi bông nhuộm chàm như áo, cắt theo kiễu quần đũng chéo, độ choãng vừa phải dài 
tới mắt cá chân. Quần có cạp rộng không luồn rút, khi mặc có dây buộc ngoài. 
Khăn đội đầu màu chàm (30cm x 200cm) Quấn trên đầu theo lối chữ 
nhân.

Y phục của nữ thường gồm áo cánh, áo dài 
năm thân, quần váy, thắt lưng, khăn đội đầu, hài vải. Áo cánh là loại 4 thân xẻ 
ngực, cổ tròn, có hai túi nhỏ phía dưới hai vạt trước, thường được cắt may bằng 
vải chàm hoặc trắng. Khi đi hội thường được mặt lót phía trong áo dài. Vì vậy 
người Tày còn được gọi là cần slửa khao (người áo trắng) để phân biệt với người 
Nùng chỉ dùng màu chàm. Áo dài cũng là loại 5 thân, xẻ nách phải cài cúc vải 
hoặc đồng, cổ tròn ống tay và thân hẹp có 
eo.
Bộ quần áo của dân tộc Tày bao gồm: khăn, 
áo, quần, dây lưng, tạp dề, guốc hoặc dép. Phụ nữ Tày thường để tóc dài, đội 
khăn. Khăn là loại khăn vuông gấp chéo kiểu “mỏ quạ”, đội lên đầu, thắt ở sau 
gáy, tương tự như kiểu đội khăn mỏ quạ của phụ nữ 
Kinh.
Áo của phụ nữ thường là loại áo năm thân, 
trong đó bốn thân dài và một thân hụt nằm ở phía ngực bên phải, xẻ chéo từ dưới 
cổ sang nách bên phải, áo phụ nữ Tày thường dài đến quá bắp chân, thân áo và tay 
bó hẹp lấy 
người.
Trước đây phụ nữ mặc váy, nhưng gần đây phổ 
biến mặc quần, là quần chân què, cát hình lá tọa, đũng rộng có thể cử động thoải 
mái trong mọi tư thế lao động. Đồng bào thường đeo thắt lưng được dệt bằng vải 
thủ công, rộng khoảng 40cm gấp làm tư, chiều dài đủ quấn quanh thân người hai 
vòng, buộc lại ở phía sau, để buông dải đuôi xuống sau 
lưng.
Nón của phụ nữ Tày khá độc đáo. Nón bằng 
nan tre lợp lá có mái nón bằng và rộng. Đồ trang sức được cả nam và nữ thích sử 
dụng đó là vòng cổ, chân, tay..., trẻ em đeo đồ trang sức bằng bạc để trừ tà ma 
và tránh 
gió.
Quần áo nam giới đơn giản hơn áo ngắn, xẻ ngực, cài cúc 
trước ngực và thường cài 5 cúc. Trang phục của nam giới có quần 
chân què, đũng rộng, cạp lá tọa, áo ngắn cũng may năm thân, cổ đứng. Nam cũng có 
áo dài như cái áo ngắn kéo dài vạt xuống quá đầu 
gối.
Nét đặc sắc trên trang phục người Tày lại 
được thể hiện ở những mẫu hoa văn trên vải. Sự pha trộn phối màu một cách tinh 
tế và hợp lí tạo đồ họa trên mặt vải khiến cho trang phục của người Tày trở nên 
sinh động và ấn tượng.
 Hồng Phượng





