
Giấy dó là sản phẩm phổ biến dùng trong 
nghi thức cúng tế của người Dao đỏ.
Nghề làm giấy dó của người Dao đỏ ở xã Nậm 
Lành, huyện Văn Chấn (Yên Bái) tuy không phát triển thành một làng nghề truyền 
thống, nhưng đã và đang tồn tại như một minh chứng cho bàn tay tài hoa và những 
giá trị văn hóa lâu đời.
Cũng như nhiều gia đình người Dao ở xã Nậm 
Lành, năm nào cũng vậy, chuẩn bị đón tết Nguyên đán, gia đình bà Lý Thị Kiều, 
thôn Nậm Kịp đều chuẩn bị nguyên liệu làm giấy dó. Công việc này tuy vất vả, tỉ 
mỉ, không có thu nhập nhưng với ý thức giữ gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, bà 
Kiều vẫn duy trì đều đặn để mỗi tuần sản xuất một mẻ giấy khoảng 600 
tờ.
Theo tâm sự của bà, cứ dịp gần đến tết 
Nguyên đán, người dân trong xã mới bắt tay làm giấy dó, sau đó nhờ các thầy cúng 
cao tay trong xã vẽ tranh, viết chữ treo trong nhà cho may mắn và giấy phải tự 
tay gia đình làm ra mới linh thiêng. Song, để làm được sản phẩm giấy dó cũng tốn 
khá nhiều công, từ việc lấy nguyên liệu, ngâm ủ đến làm ra sản phẩm cũng phải 
mất nửa tháng 
trời.
Giấy dó được làm từ những nguyên liệu có 
sẵn trong tự nhiên, được sử dụng trong các nghi lễ truyền thống như: lễ tết, ma 
chay, cưới hỏi của người Dao đỏ. Mỗi tờ giấy chính là nguyên liệu để các nghệ 
nhân thể hiện các tác phẩm tranh vẽ tín ngưỡng phục vụ thờ cúng, tục treo tranh, 
các lễ hội như Cấp sắc, hội 
xuân...
Từ xa xưa, giấy dó còn được dùng để viết 
thư thăm hỏi, trao đổi kinh nghiệm sản xuất và không thể thiếu để phục vụ nhiều 
nghi lễ truyền thống của dân tộc. Ngoài ra, giấy dó còn dùng để làm bía cho trẻ 
con, người lớn, chính bởi vậy mà nghề làm giấy dó của người Dao đỏ còn được lưu 
truyền cho đến ngày 
nay.
Xã Nậm Lành có trên 90% là dân tộc Dao đỏ, 
trước đây hầu hết các nhà đều làm giấy dó nhưng giờ nghề truyền thống này đang 
dần bị mai một, đến nay chỉ còn gần 10 hộ duy trì nghề. Đây là loại giấy độc đáo 
do chính bàn tay người Dao đỏ làm ra, có nguồn gốc từ rất lâu đời và công nghệ 
sản xuất được lưu giữ qua nhiều thế 
hệ.
Đây là loại giấy rất đặc biệt, không trắng 
như giấy công nghiệp nhưng dai, bền và thoang thoảng mùi thơm cây rừng. Loại cây 
được sử dụng để làm giấy nhiều nhất là cây vầu hoặc rơm nếp sau mùa thu hoạch. 
Dụng cụ cơ bản để làm giấy dó là một cái khuôn làm bằng vải, có nhiều kích cỡ 
khác nhau (thường là 60cmx120cm), một nồi nấu chất liệu giấy và một chậu đựng 
nước pha bột 
giấy...
Khi cây vầu cao chừng 3 mét, người ta chặt 
về, loại bỏ lá, cành rồi cắt thành từng đoạn ngắn đem luộc mềm. Vầu hoặc rơm đã 
luộc được ngâm với vôi và tro bếp khoảng 10 ngày cho nhuyễn hẳn rồi dùng cối để 
giã thành bột, khi đó sẽ được một loại dung dịch sóng sánh màu vàng xanh. Người 
Dao đỏ lấy dung dịch này tráng thật mỏng trên khuôn vải giống như tráng bánh 
cuốn, phơi khô rồi bóc ra là được tấm giấy dó đầu 
tiên.
Việc làm giấy chủ yếu do người phụ nữ Dao 
đảm nhiệm. Để có những tờ giấy vuông vắn, công đoạn cuối cùng là xếp các tấm 
giấy thành lớp, gấp vào, dùng thanh nứa mảnh rọc theo khổ 10 x 20cm hoặc 20 x 
30cm, sau đó chạm hoa văn nổi bằng một dụng cụ kim loại. Mỗi tờ giấy cầm lên 
mỏng tang, sắc vàng, độ xốp cao, dai mịn, soi ra ngoài ánh nắng thấy rõ những 
sợi tơ và phảng phất hương thơm của cây 
rừng.
Được làm từ bàn tay khéo léo của người Dao 
đỏ, theo những bí quyết riêng, giấy dó là loại giấy tuy mỏng, nhưng dai và bền 
hơn giấy sản xuất công nghiệp. Nếu được bảo quản ở nơi khô ráo, giấy có thể để 
vài chục năm. Bởi thế, loại giấy này phổ biến và được ưa thích không chỉ trong 
cộng đồng người Dao. Mỗi gia đình người Dao có một góc thờ, chỉ dán tờ giấy lên 
vách phía sau đối diện với cửa chính để đánh dấu. Cũng giống như người Kinh đốt 
vàng mã trong ngày lễ, người Dao đỏ cũng đốt giấy dó theo quan niệm tâm 
linh.
Ngoài ra, giấy dó còn được đóng thành quyển 
để viết chữ. Trong mỗi gia đình người Dao đỏ nói riêng đều lưu giữ một, hai cuốn 
sách chữ nho viết bằng mực màu trên giấy dó. Trải qua bao thế hệ, có cuốn bìa đã 
rách nát mà nét chữ vẫn không phai màu. Chính sự cẩn trọng, giữ gìn và lòng 
thành kính khi sử dụng giấy dó đã cho thấy giá trị tôn nghiêm của loại giấy này 
trong đời sống văn hóa phong tục của người Dao đỏ. Tuy nhiên, cuộc sống ngày 
càng phát triển, lớp trẻ dân tộc Dao được tiếp cận với nhiều nền văn hóa hiện 
đại, được sử dụng các loại giấy chất lượng cao, tiện lợi, rẻ tiền, dễ sử dụng 
nên nghề làm giấy dó đang có nguy cơ bị mai 
một.
Để gìn giữ một nghề truyền thống không mang lại giá trị 
kinh tế và thu nhập cho người dân không phải là chuyện đơn giản 
bởi theo như tâm sự của  bà Bàn Thị Náy - Phó chủ tịch UBND xã Nậm Lành 
thì lớp trẻ trong làng, trong xã lớn lên đều thoát ly để kiếm sống, hầu như 
chúng không mặn mà với công việc này, lớp người già biết làm cũng 
dần mai 
một.
Nghề làm giấy dó của người Dao đỏ ở xã Nậm 
Lành tuy không phát triển thành một làng nghề truyền thống, nhưng đã và đang tồn 
tại như một minh chứng cho bàn tay tài hoa và những giá trị văn hóa lâu đời, 
đồng thời nó có tầm quan trọng đối với phong tục, tập quán, đời sống văn hóa của 
dân tộc. Việc nghiên cứu bảo tồn nét văn hóa truyền thống đặc trưng này không 
chỉ có người dân làm được mà rất cần sự quan tâm của các cấp, các ngành và cả 
cộng đồng.
Thanh Tân
Giấy dó là sản phẩm phổ biến dùng trong 
nghi thức cúng tế của người Dao 
đỏ.
Nghề làm giấy dó của người Dao đỏ ở xã Nậm 
Lành, huyện Văn Chấn (Yên Bái) tuy không phát triển thành một làng nghề truyền 
thống, nhưng đã và đang tồn tại như một minh chứng cho bàn tay tài hoa và những 
giá trị văn hóa lâu đời.
Cũng như nhiều gia đình người Dao ở xã Nậm 
Lành, năm nào cũng vậy, chuẩn bị đón tết Nguyên đán, gia đình bà Lý Thị Kiều, 
thôn Nậm Kịp đều chuẩn bị nguyên liệu làm giấy dó. Công việc này tuy vất vả, tỉ 
mỉ, không có thu nhập nhưng với ý thức giữ gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, bà 
Kiều vẫn duy trì đều đặn để mỗi tuần sản xuất một mẻ giấy khoảng 600 
tờ.
Theo tâm sự của bà, cứ dịp gần đến tết 
Nguyên đán, người dân trong xã mới bắt tay làm giấy dó, sau đó nhờ các thầy cúng 
cao tay trong xã vẽ tranh, viết chữ treo trong nhà cho may mắn và giấy phải tự 
tay gia đình làm ra mới linh thiêng. Song, để làm được sản phẩm giấy dó cũng tốn 
khá nhiều công, từ việc lấy nguyên liệu, ngâm ủ đến làm ra sản phẩm cũng phải 
mất nửa tháng 
trời.
Giấy dó được làm từ những nguyên liệu có 
sẵn trong tự nhiên, được sử dụng trong các nghi lễ truyền thống như: lễ tết, ma 
chay, cưới hỏi của người Dao đỏ. Mỗi tờ giấy chính là nguyên liệu để các nghệ 
nhân thể hiện các tác phẩm tranh vẽ tín ngưỡng phục vụ thờ cúng, tục treo tranh, 
các lễ hội như Cấp sắc, hội 
xuân...
Từ xa xưa, giấy dó còn được dùng để viết 
thư thăm hỏi, trao đổi kinh nghiệm sản xuất và không thể thiếu để phục vụ nhiều 
nghi lễ truyền thống của dân tộc. Ngoài ra, giấy dó còn dùng để làm bía cho trẻ 
con, người lớn, chính bởi vậy mà nghề làm giấy dó của người Dao đỏ còn được lưu 
truyền cho đến ngày 
nay.
Xã Nậm Lành có trên 90% là dân tộc Dao đỏ, 
trước đây hầu hết các nhà đều làm giấy dó nhưng giờ nghề truyền thống này đang 
dần bị mai một, đến nay chỉ còn gần 10 hộ duy trì nghề. Đây là loại giấy độc đáo 
do chính bàn tay người Dao đỏ làm ra, có nguồn gốc từ rất lâu đời và công nghệ 
sản xuất được lưu giữ qua nhiều thế 
hệ.
Đây là loại giấy rất đặc biệt, không trắng 
như giấy công nghiệp nhưng dai, bền và thoang thoảng mùi thơm cây rừng. Loại cây 
được sử dụng để làm giấy nhiều nhất là cây vầu hoặc rơm nếp sau mùa thu hoạch. 
Dụng cụ cơ bản để làm giấy dó là một cái khuôn làm bằng vải, có nhiều kích cỡ 
khác nhau (thường là 60cmx120cm), một nồi nấu chất liệu giấy và một chậu đựng 
nước pha bột 
giấy...
Khi cây vầu cao chừng 3 mét, người ta chặt 
về, loại bỏ lá, cành rồi cắt thành từng đoạn ngắn đem luộc mềm. Vầu hoặc rơm đã 
luộc được ngâm với vôi và tro bếp khoảng 10 ngày cho nhuyễn hẳn rồi dùng cối để 
giã thành bột, khi đó sẽ được một loại dung dịch sóng sánh màu vàng xanh. Người 
Dao đỏ lấy dung dịch này tráng thật mỏng trên khuôn vải giống như tráng bánh 
cuốn, phơi khô rồi bóc ra là được tấm giấy dó đầu 
tiên.
Việc làm giấy chủ yếu do người phụ nữ Dao 
đảm nhiệm. Để có những tờ giấy vuông vắn, công đoạn cuối cùng là xếp các tấm 
giấy thành lớp, gấp vào, dùng thanh nứa mảnh rọc theo khổ 10 x 20cm hoặc 20 x 
30cm, sau đó chạm hoa văn nổi bằng một dụng cụ kim loại. Mỗi tờ giấy cầm lên 
mỏng tang, sắc vàng, độ xốp cao, dai mịn, soi ra ngoài ánh nắng thấy rõ những 
sợi tơ và phảng phất hương thơm của cây 
rừng.
Được làm từ bàn tay khéo léo của người Dao 
đỏ, theo những bí quyết riêng, giấy dó là loại giấy tuy mỏng, nhưng dai và bền 
hơn giấy sản xuất công nghiệp. Nếu được bảo quản ở nơi khô ráo, giấy có thể để 
vài chục năm. Bởi thế, loại giấy này phổ biến và được ưa thích không chỉ trong 
cộng đồng người Dao. Mỗi gia đình người Dao có một góc thờ, chỉ dán tờ giấy lên 
vách phía sau đối diện với cửa chính để đánh dấu. Cũng giống như người Kinh đốt 
vàng mã trong ngày lễ, người Dao đỏ cũng đốt giấy dó theo quan niệm tâm 
linh.
Ngoài ra, giấy dó còn được đóng thành quyển 
để viết chữ. Trong mỗi gia đình người Dao đỏ nói riêng đều lưu giữ một, hai cuốn 
sách chữ nho viết bằng mực màu trên giấy dó. Trải qua bao thế hệ, có cuốn bìa đã 
rách nát mà nét chữ vẫn không phai màu. Chính sự cẩn trọng, giữ gìn và lòng 
thành kính khi sử dụng giấy dó đã cho thấy giá trị tôn nghiêm của loại giấy này 
trong đời sống văn hóa phong tục của người Dao đỏ. Tuy nhiên, cuộc sống ngày 
càng phát triển, lớp trẻ dân tộc Dao được tiếp cận với nhiều nền văn hóa hiện 
đại, được sử dụng các loại giấy chất lượng cao, tiện lợi, rẻ tiền, dễ sử dụng 
nên nghề làm giấy dó đang có nguy cơ bị mai 
một.
Để gìn giữ một nghề truyền thống không mang lại giá trị 
kinh tế và thu nhập cho người dân không phải là chuyện đơn giản 
bởi theo như tâm sự của  bà Bàn Thị Náy - Phó chủ tịch UBND xã Nậm Lành 
thì lớp trẻ trong làng, trong xã lớn lên đều thoát ly để kiếm sống, hầu như 
chúng không mặn mà với công việc này, lớp người già biết làm cũng 
dần mai 
một.
Nghề làm giấy dó của người Dao đỏ ở xã Nậm 
Lành tuy không phát triển thành một làng nghề truyền thống, nhưng đã và đang tồn 
tại như một minh chứng cho bàn tay tài hoa và những giá trị văn hóa lâu đời, 
đồng thời nó có tầm quan trọng đối với phong tục, tập quán, đời sống văn hóa của 
dân tộc. Việc nghiên cứu bảo tồn nét văn hóa truyền thống đặc trưng này không 
chỉ có người dân làm được mà rất cần sự quan tâm của các cấp, các ngành và cả 
cộng đồng.
Thanh Tân





