
1. Sơ lược nguồn gốc và tộc danh Tày
Theo số liệu công bố năm 1999, tổng số dân 
Tày là 1.447.514 người, đứng vị trí thứ hai sau người Kinh, sống tập trung ở 
vùng Việt Bắc, chủ yếu tại Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái 
Nguyên, Lạng Sơn.
Về nguồn gốc, Tày (và Nùng) thuộc khối cư 
dân Bắc Việt cư trú lâu đời trên khu vực nam Trung Quốc và bắc Việt Nam. Quá 
trình cùng chung sống lâu dài đã chịu nhiều ảnh hưởng văn hoá Việt trở thành 
người Tày (Việt Nam) và văn hoá Hán thành người Choang Đồng (Trung Quốc). Ở 
Quảng Tây hiện nay vẫn tồn tại các nhóm Choang Đồng với các tên: Pò Choang, Pò 
Đề Di, Pò Nồng, Pò 
Tày[3].
Tộc danh Tày bắt nguồn từ cách nêu đặc điểm 
của nhóm người chuyên nghề cày ruộng, làm lúa nước, nông cụ tiêu biểu là chiếc 
cày. Trong tiếng Tày- Thái cổ cày gọi là Mạc Thay hay Thây rồi biến âm thành Tày 
và Thái[2, tr.46], bằng dụng ý rõ ràng hơn khi người Tày được gọi là Cần Nà- 
Người cày ruộng. Người Tày nói chung đều tự nhận là Cần Tày, tuỳ theo từng nơi 
có tên Tày bốc- Tày cạn sống vùng núi và Tày nặm- Tày nước làm bản dựng nhà dưới 
thung lũng nhiều sông suối. Từ thế kỷ XV để phân biệt với Thổ quan từ dưới xuôi 
lên cai trị, người Tày còn có tên là Thổ với hàm nghĩa thổ địa ám chỉ nhóm người 
đã sinh sống lâu đời nơi 
đây.

Như vậy người Tày cổ (Âu Việt) đã dung hợp 
với nhóm Việt Mường cổ (Lạc Việt) ngay từ buổi đầu dựng nước, góp phần quan 
trọng hình thành nên dân tộc Việt 
Nam.
2. Văn hoá tín ngưỡng dân gian 
Tày
Sơ đồ chỉ 
hướng:
Trong tam giáo, ảnh hưởng của đạo giáo nổi 
trội hơn, đạo giáo còn gọi là Lão giáo do Lão Tử sáng lập trước công nguyên hàng 
trăm năm, tuy vậy về sau chỉ có đạo giáo của Trương Đạo Lăng[2] phổ biến trong 
tín ngưỡng dân gian Tày, tính chất mang nhiều yếu tố shaman như: tu tiên, luyện 
đan, đồng cốt, ma thuật phù thuỷ, chiêm tinh, bói 
toán.
Như vậy, tín ngưỡng người Tày bắt nguồn từ 
thủa xa xưa, khởi sinh từ ý thức bảo vệ cộng đồng thị tộc, đây là lớp tảng nền 
sơ khai thứ nhất. Trải qua thời gian, tín ngưỡng bản địa Tày chịu sự tác động 
của người Việt khi hai tộc người Âu Việt và Lạc Việt cùng nhau liên thủ, đây là 
lớp văn hoá thứ hai, tuy vậy do tương đồng nên giữa Âu Việt và Lạc Việt luôn có 
sự gắn bó chặt chẽ. Sự xuất hiện tam giáo du nhập vào là lớp thứ ba đã biến đổi 
tín ngưỡng Tày sang dạng thức như ngày 
nay.
GS.TS Ngô Đức Thịnh nhận xét:…kết quả của 
sự hỗn dung, pha tạp giữa tín ngưỡng bản địa và tam giáo (Phật- Đạo- Nho) đã 
hình thành và tồn tại một số tín ngưỡng đặc thù: Then, Tạo, Pụt, Mo với tư cách 
là thày cúng Then, Tào, Pụt, Mo tham gia vào hầu hết các nghi lễ của tín ngưỡng 
người Tày, Nùng, từ thờ cúng tổ tiên trong gia đình tới các hình thức thờ thổ 
thần, thành hoàng của cộng đồng  [6, 
tr.5].

3. Hiện tượng 
shaman trong Then 
Tày
Bản chất Then là 
gì? Nguồn gốc như thế nào? Những biểu hiện của then trong 
tín ngưỡng người Tày ra sao? Trong nội dung này sẽ xem xét và giải mã hiện tượng 
Then.
 Có một số giả thuyết quá trình xuất hiện 
Then trong đời sống tâm linh của người Tày, dựa trên tư liệu dân gian, truyền 
thuyết từ nhiều vùng khác nhau, đặc biệt là của các tác giả ở Cao Bằng như Hoa 
Cương, Dương Sách, Triều Ân đều cho rằng Then chính thức ra đời khi nhà Mạc bị 
thất sủng chạy trốn lên Cao Bằng cát cứ (thế kỷ XVI, XVII)[9]. Đây là sự kiện 
lịch sử có thật, phản ánh giai đoạn văn hoá Việt- Tày đan cài tại Cao Bằng, để 
lại đến ngày nay trong Then nhiều trường đoạn hát bằng tiếng 
Kinh.
Hoàng Tuấn cho rằng: đại bộ phận các ông bà 
then cắt nghĩa then là tiên, là môn tiên, là trời [8,tr.88], cách giải nghĩa mở 
rộng hơn dưới góc độ dân tộc học với quan niệm Then là một từ cổ trong vốn từ 
ngữ Tày- Thái, gốc ban đầu có chung một nghĩa[8]. GS.TS Ngô Đức Thịnh[6] và PGS 
Vũ Ngọc Khánh[3] cùng chung quan niệm: Then có nghĩa là tiên, cũng như Pụt nghĩa 
là phật.
Như vậy, Then được hiểu là người cõi trời, 
giữ mối liên hệ giữa người trần gian với Ngọc Hoàng Thượng Đế trên trời, nhưng 
cách giải thích trên chưa tầm nguyên đầy đủ về Then. TS Nguyễn Thị Yên[10] tìm 
cách giải mã lớp tiền tố Then, và nêu rõ các hình thức nhập đồng tồn đọng yếu tố 
shaman giáo trong các trò chơi của trẻ em, chủ yếu là những nàng tiên/ linh hồn 
như: nàng Trứng, nàng Cám, nàng Sọt, nàng Hương mang đậm tín ngưỡng bản địa 
nguyên thuỷ. Đây là tín ngưỡng sliên (tiên)- yếu tố tiền then, chữ sliên- tiên 
vay mượn từ chữ Hán, về sau dùng để chỉ hình thức cúng bái bản địa liên quan đến 
sự nhập đồng của then 
nữ.
Để trở thành ông Then hay bà Then, người 
Tày cho rằng do căn số, ma then nhập vào. GS.TS Ngô Đức Thịnh[6] nêu hai trường 
hợp trở thành Then: a) có căn then (mỉng bang) và b) gia đình, dòng dõi có người 
làm Then (tẩn then). Trong cuộc đời làm Then, ông Then hay bà Then trải qua 
nhiều lần thăng cấp (tâng) qua lễ lẩu Then, cấp Then biểu hiện ở số lượng dải 
mũ, tương đương với số quân mà Then cai quản. Như vậy Then là người đặc biệt 
trong cộng đồng Tày, có khả năng thông quan với thần linh, khi Then thăng cũng 
có nghĩa Then đã tiếp cận với thế giới siêu nhiên, đồng thời nhập vào mọi đối 
tượng phi để bắc cầu giao tiếp với người trần gian. Về hình thức và nội dung 
Then giống như hầu đồng của người Việt, GS.TS Võ Quang Trọng nhận xét: 'hầu đồng 
của người Việt và then của người Tày là hiện tượng con người tự thôi miên để đưa 
mình vào trạng thái ảo giác đặc biệt'[7, 
tr.44].
Trong nhiều công trình, các nhà nghiên cứu 
tín ngưỡng tộc người đều nhắc đến shaman như một dạng ảo giác đặc biệt và trạng 
thái ngây ngất- estasy. Đối với Then: shaman là hiện tượng biến hoá tư duy, tinh 
thần con người từ trạng thái này sang trạng thái khác theo cách hiểu xuất thần 
nhập thần, vậy shaman là 
gì?
Thuật ngữ shaman- thày pháp xuất hiện lần 
đầu tiên trong một số tài liệu ở Nga vào thế kỷ XVII, nguồn gốc từ tiếng Evenk 
(saman) của bộ lạc Tungus chuyên sống bằng nghề chăn nuôi tuần lộc ở Xibiri, 
biến đổi từ chữ  samana- tiếng Pali (hệ tiếng sancrit) được các nhà Phương Đông 
học chấp nhận vào thế kỷ XIX[11]. Gần một thế kỷ sau, thuật ngữ shaman giáo- 
shamanism trở nên thông dụng, xuất hiện trong nhiều công trình nghiên cứu Âu, 
Mỹ. Ở Trung Quốc, hiện tượng shaman có nhiều tên gọi, tên chung là Vu thuật, 
người hành nghề shaman là Vu sư. Tuy vậy tùy từng nơi gọi là thỉnh thần phụ thể, 
thần linh phụ thể, quỷ thần phụ thể, nhưng dịch sang tiếng Việt nhiều nhất là từ 
giáng thần phụ thể, nghĩa là cầu thần nhập xác. Tại Đông Nam Á, shaman là hình 
thức tôn giáo sơ khai tự thân hình thành trong các cuộc hành lễ hiến sinh nguyên 
thuỷ, được cộng đồng đón nhận như một dạng người đặc biệt, có khả năng phi 
thường, có bí quyết và sức mạnh ma 
thuật.
Tuy vậy, thời điểm xuất hiện shaman còn có 
nhiều ý kiến khác nhau. Theo trường phái lịch sử[12] shaman ra đời vào giai đoạn 
phân rã công xã thị tộc nguyên thuỷ kèm theo sự phân công địa vị một số người. 
Trường phái dân tộc học Trung Quốc cho rằng shaman tồn tại thời trung kỳ xã hội 
thị tộc mẫu hệ, lúc này vai trò người phụ nữ có quyền năng rất lớn. Với trường 
phái sinh học phát triển, shaman là hiện tượng của người mắc bệnh cuồng itteri, 
một loại bệnh thần kinh, nói cách khác tất cả các thày shaman đều biểu hiện bệnh 
thần kinh dạng phân tâm học được Freud phát hiện đầu thế kỷ XX. Khi hành nghề, 
các thầy shaman (cả nam lẫn nữ) bị kích động toàn thân, thực hiện những hành 
động đặc biệt lúc bình thường ít người làm được như: đi trên than nóng, đoán 
định tương lai, thần nhập, nói bằng ngôn ngữ chưa bao giờ học, hát múa suốt 
ngày…thực tế shaman là hiện tượng tồn tại trong hầu hết tất cả các tộc người 
trên thế 
giới.
GS.TSKH Tô Ngọc Thanh nêu bản chất shanman 
là tạo nên yếu tố thiêng phát xuất khi tiến hành nghi lễ (trong then Tày và hầu 
đồng Việt), từ đó lan toả khắp xung quanh, khiến mọi đối tượng tham gia đều chịu 
ảnh hưởng. Điều kiện để thiêng hình thành là âm nhạc, múa, do đó Then không thể 
thiếu hai loại hình nghệ thuật này cùng tham gia. TS Nguyễn Thị Hiền[1] khi tiến 
hành khảo sát thực tế nghề làm Then tại một số địa bàn người Tày cho biết hầu 
hết sau lễ cúng, các ông Then, bà Then đều không nhớ lại được hành động, ngôn 
ngữ khi rơi vào trạng thái xuất thần lúc hành 
lễ.

4. Các thành tố diễn xướng trong nghệ thuật 
Then
Phương tiện hành nghề Then 
gồm:
- Quả trứng, chim én: là vật thiêng đóng 
vai trò dẫn hồn 
Then.
- Bằng sắc và ấn của Ngọc Hoàng cấp để Then 
vào các cửa thần 
linh.
- Quạt phép (quạt trời): giúp Then tạo 
nhiều động tác biến hoá như bay bổng trên mây, xuống âm phủ, đi dưới 
nước.
- Gương dùng trừ tà, soi sáng đường Then 
đi.
- Đàn Tính: nguồn khải lực để Then thoát 
hồn, thông quan với các loại thần 
linh.
- Chùm xóc nhạc- Miạc: lực lượng âm binh để 
Then sai 
khiến.
Những đồ vật biểu trưng linh giáo như: 
trứng, chim én, gương, quạt qua tay Then đầy tính ma thuật dưới dạng phù thuỷ. 
Nhưng nổi trội và tạo nên giá trị thu hút toàn thể cộng đồng là nghệ thuật Then- 
nhân lõi cốt yếu xuyên suốt quá trình xuất, nhập thần. Nhiều nhà nghiên cứu đồng 
nhất ý kiến: Then Tày là hiện tượng văn hoá dân gian tổng thể có tính nguyên hợp 
(syncretic), là hình thức nghi lễ diễn xướng nghệ thuật tổng hợp gồm có hát, 
nhạc, múa, trang phục [7,tr.44], hoặc then là một nghi lễ tôn giáo được diễn 
xướng bằng hình thức hát, hát kể có kèm theo nhạc và nhảy múa, ngoài ra còn có 
những biểu tượng tôn giáo mang tính tượng trưng và nhiều yếu tố sân khấu dân 
gian[1,tr.74]. PGS.TS Nguyễn Thuỵ Loan tham chiếu các hệ thống tín ngưỡng tộc 
người ở Việt Nam đã khái quát:…tín ngưỡng tôn giáo là một trong những môi trường 
quan trọng cho sự sáng tạo và nảy sinh âm 
nhạc…[4,tr.65].
Như vậy, diễn xướng nhạc- hát- múa là động 
cơ bên trong nảy sinh không gian thiêng, giúp Then thăng, hoá, xuất, nhập trên 
đường (tàng) đi. Nếu như hầu đồng của người Việt là hiện tượng nhập hồn thì hành 
trạng Then Tày biến đổi theo hướng ngược lại, nghĩa là thoát hồn. X.A Tôcarev 
cho rằng có hai hình thức giao tiếp với thần linh:…hoặc thần linh nhập vào người 
thầy pháp (hay vào trống của thầy), hoặc ngược lại, hồn thầy pháp chu du lên xứ  
sở thần linh…[11,tr.330]. Quá trình thoát xác xảy ra lúc Then ngồi bỗng rùng 
mình mấy cái, tay cầm chùm xóc nhạc rung rung rồi rơi vào trạng thái estasy- ảo 
giác ngây 
ngất.
Cùng với đàn tính, chùm xóc nhạc thì hát 
Then là môi trường để Then múa các động tác khi thoát hồn. Trên toàn bộ 5 tỉnh 
Việt Bắc mỗi vùng đều sử dụng hệ thống làn điệu 
riêng:
- Lạng Sơn: Giải hạn, Cáp tơ hồng, Tiển 
cổm, Pây 
sử.
- Cao Bằng: Pây Sử, Kỳ Yên, Cái cấu cầu 
Bjoóc, Hỉn 
ẻn.
- Bắc Kạn: kẻn Bjoóc, Khảm hải, Kỳ yên, Cái 
cấu cầu hoa, Hỉn ẻn, Bách 
điểu.
- Tuyên Quang: Lẩu 
luông.
- Hà Giang: toàn bộ các làn điệu trong Lẩu 
Then.
Hệ thống làn điệu này không cố định, phần 
lớn tuỳ theo ông bà Then sử dụng vào trình tự cuộc lễ, ví dụ như ở Thất Khê- 
Lạng Sơn ngoài các làn điệu trên còn có: điệu Cống sử dùng trong lễ cúng trẻ em, 
Tò mạy ở lễ giải hạn, Suôi lừa hát khi Then làm động tác chèo thuyền, Khẩu tu 
vùa lúc Then đến cung Ngọc Hoàng…ngoài ra còn chia làn điệu làm 2 
kiểu:
- Tàng bốc: đi đường trên 
cạn.
- Tàng nặm: đi đường dưới 
nước.
Cũng giống như dân ca của nhiều tộc người 
trên đất nước Việt Nam, phương thức truyền khẩu, tự ứng tác trong hát Then là 
hiện tượng phổ biến. Mỗi Then đều xây dựng motif- Âm hình giai điệu riêng ngay 
từ khi bắt đầu bước vào hành nghề, dần dần Then tiếp thu nhiều làn điệu khác 
nhau mang âm hưởng dân ca nơi Then sống. Điển hình như điệu lượn Then có gốc 
giai điệu từ lượn cọi- lối hát giao duyên nam nữ tỏ 
tình.
Cách hát trong Then phần lớn là hát nói 
(hoặc nói như hát) mang tính tự sự, kể chuyện, mô tả trên nền nhịp điệu không ổn 
định về tiết tấu. Đây cũng là đặc điểm khu biệt giữa Then Tày và hầu đồng Việt, 
nguyên do nguồn âm điệu dân ca Tày hiếm gặp cấu trúc giai điệu dí dỏm, nghịch 
ngợm, tốc độ nhanh, hoạt, rộn rã. Hoàng Tuấn[8] phân định hát Then làm ba dạng 
dựa theo tính chất biểu hiện của giai 
điệu:
- Loại cầu khẩn niệm 
chú.
- Loại giãi bày tâm 
sự.
- Loại kể lể, mô 
tả.    
Từ phân loại trên cho thấy hát Then mang 
đặc tính cầu khẩn, giãi bày, kể lể tạo nên kiểu hành lễ trong màu sắc tối. Thời 
điểm diễn ra nghi lễ Then chủ yếu trong đêm tối, như vậy Then diễn xướng trong 
một không gian tối, tất cả đều mang lại cảm giác hư hư thực thực, mờ ảo gợi lên 
vẻ huyền bí, âm u. Nếu vào ban ngày thì Then thoát hồn trong nhà, tại những nơi 
ít ánh sáng chiếu 
vào.
Cây đàn cùng với hát Then là Tính tẩu, một 
sáng tạo đặc sắc của người Tày lấy chất liệu sẵn có từ môi trường thiên nhiên. 
Xung quanh sự ra đời cây đàn Tính nhiều huyền thoại, truyền thuyết được thêu 
dệt, lưu truyền trong dân gian. Tính là âm tượng thanh tính, tình, tang đặt tên 
cho cây đàn, tẩu nghĩa là quả Bầu chỉ rõ bầu đàn làm từ quả Bầu. Những câu 
chuyện về sự ra đời đàn Tính lưu truyền khắp mọi nơi trong cộng đồng người Tày 
như: Pụt Luông- Bụt lớn sai con gái dạy cho loài người biết lượn, làm đàn Tính. 
Chuyện ông Bế Văn Phụng[9] chế tác đàn Tính phục vụ nhà Mạc trên Cao Bằng. 
Chuyện về chàng Xiên Câm, người lấy lá cây Dâu từ trên trời về nuôi tằm, xe sợi 
tạo dây đàn, trồng cây Bầu lấy quả Bầu chế thành bầu đàn, cán đàn sừng đàn làm 
từ cây khảo hương và cây lý, những loài cây có hương thơm mọc khắp nơi, ra hoa 
đẹp nở suốt bốn mùa. Các truyền thuyết trên là niềm tự hào của người 
Tày. 
Dây đàn Tính truyền thống trước đây dùng tơ 
tằm xe lại, sau đó lấy sáp ong hoặc nhựa củ nâu chuốt đi chuốt lại nhiều lần 
giúp dây bền và không rè, hiện nay được thay thế bằng dây nilông. Đàn Tính 2 dây 
lên dây theo hai kiểu quãng: 4 đúng (rê- sol), 5 đúng (đô- sol), nhiều vùng như 
Bắc Kạn, Lạng Sơn đàn Tính lên dây thấp hơn 1 cung: đô- fa. Còn đàn 3 dây cách 
mắc khá đặc biệt: giữa dây dưới- rê và dây trên- sol, dây giữa có cao độ thấp 
hơn một quãng 8 đúng so với dây trên (rê- sòl- sol), hiệu quả tạo nên âm trầm 
trì tục khi 3 dây cùng vang lên. Tiếng đàn Tính gọn gàng, ấm áp, hơi đục do hộp 
cộng hưởng vỏ quả Bàu có mấy lỗ thoát hơi nhỏ đằng sau. Về kỹ thuật diễn tấu, 
người Tày gảy chủ yếu bằng ngón trỏ, các ngón giữa và áp út chỉ có những người 
đạt tới trình độ tương đối điêu luyện mới sử dụng. Đàn Tính là loại nhạc cụ của 
nghi lễ cầu cúng do đó ngày trước ít xuất hiện trong sinh hoạt hát dân 
ca.
Đồng hành với hát Then, đàn Tính là chùm 
xóc nhạc- Miạc gồm nhiều quả nhạc nhỏ ghép lại, nối với nhau bằng các vòng tròn 
bằng sắt hoặc bằng đồng. Xét nguồn gốc ra đời, Hoàng Tuấn[8] đưa ý kiến rất đáng 
chú ý, Miạc xuất hiện gắn liền với động tác nhảy múa thời nguyên thuỷ, xuất xứ 
ban đầu là các chùm quả khô bên trong có hạt nhỏ đeo xung quanh người, trải theo 
thời gian dần biến đổi thành chùm xóc nhạc như ngày nay. Trong nghi lễ hát Then, 
chùm xóc nhạc tượng trưng cho những chiếc vòng lục lạc trên cổ ngựa, khi chạy 
phát ra âm thanh nghe réo rắt, do đó Miạc có tên khác là Xáu mạ, nghĩa đen là 
nhạc ngựa. Nghề Then coi chùm xóc nhạc như con ngựa thiêng được ông bà Then cưỡi 
dẫn đoàn quan quân lên thiên giới. Giọng hát, đàn Tính, chùm xóc nhạc vang lên 
tạo thành tổ hợp âm sắc gây ấn tượng đặc biệt, người Tày tin rằng đó là sự tổng 
hoà các thứ tiếng có trong trời đất qua mối quan hệ biểu tượng: thiên- địa- 
nhân. Đàn Tính do tiên trời ban cho, chùm xóc nhạc như đoàn âm binh dưới đất, và 
giọng hát đại diện cho người cùng muôn loài trên dương gian. Về âm nhạc, Miạc 
luôn tạo nên các nhóm tiết tấu khác nhau, dẫn dắt tiếng đàn điệu hát nhịp nhàng, 
ổn định, sự kết hợp không cố định giữa các quả nhạc xóc khi rung, lắc tạo âm 
thanh đa chiều, có màu sắc riêng không lẫn lộn với bất cứ nhạc cụ tự thân vang 
nào khác.
Cùng với âm nhạc (đàn Tính, chùm xóc nhạc, 
giọng hát) không thể không nhắc tới trang phục Then, nổi trội và đặc trưng nhất 
trong nghi lễ cấp sắc Lẩu Then. Màu sắc quần áo then mặc chủ yếu dùng các gam 
màu nguyên tông như: đỏ, vàng, tím, trắng, chàm, khác hẳn với kiểu phối màu của 
hầu đồng người Việt. Mỗi màu Then mặc đều ứng với từng vị thần linh, do đó trong 
một buổi lễ Then phải thay đổi y phục nhiều lần, đây là ước định giúp Then phô 
diễn hết khả năng trong mỗi hình thức nghi lễ nhất định. Tính thuần nhất về màu 
phân biệt rõ ràng giữa Then và người bình thường trong ăn mặc sinh hoạt hàng 
ngày. Lễ phục Then mặc kết hợp với không gian nghi lễ đã hình thành nên một sân 
khấu dân gian rực rỡ sắc màu, ở đó Then đóng vai chính toàn bộ buổi biểu diễn. 
Sự sắp đặt trình tự lễ theo quy trình thời gian được Then chuẩn bị chu đáo. Đó 
chính là những nghệ nhân trình diễn nghệ thuật dân gian đặc sắc, sản phẩm kết 
tinh từ văn hoá Tày kế thừa toàn bộ di sản truyền thống, tự thân phát triển tới 
trình độ ngày càng hoàn thiện hơn. Trải qua thời gian, những nghệ nhân Then đã 
phát huy tối ưu kinh nghiệm, hiểu biết nghề Then, được cộng đồng chấp nhận như 
người ưu tú, tiêu biểu cho phức hệ tín ngưỡng 
Tày.
5. Tạm dừng nội dung- thay cho lời 
kết
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Then 
Tày, đặc biệt trong lĩnh vực văn hoá dân gian, dân tộc học, ngữ văn. Nhưng về âm 
nhạc học nói chung và âm nhạc tộc người nói riêng từ trước đến nay không nhiều, 
có thể nêu một số nhà nghiên cứu tiêu biểu: GS.TSKH Tô Ngọc Thanh, PGS.TS Thuỵ 
Loan, nhạc sĩ Hoàng Tuấn, nhạc sĩ Nông Thị Nhình…tất cả đều xuất phát từ nhận 
thức độc lập, say mê với làn điệu dân ca vùng, miền. Tác giả viết bài này chỉ 
mong muốn tìm tòi, suy ngẫm những thành quả đã đạt được của nhiều người đi 
trước. Bởi âm nhạc tộc người ở Việt Nam vẫn là mảnh đất luôn thu hút nhiều sự 
quan tâm hơn, cần nghiên cứu sâu và có hệ 
thống.
Then Tày ẩn chứa đa phức thể nguyên hợp, 
định dạng nghiên cứu Then từ nhiều lĩnh vực khác nhau góp phần giải mã hiện 
tượng Then, hình thái văn hoá- tín ngưỡng- nghệ thuật tiêu biểu của người Tày, 
từ đó góp phần sáng tỏ các phương thức diễn xướng dân gian của nhiều tộc người 
khác trên đất nước Việt Nam.
 Trần Hoàng Tiến

1. Sơ lược nguồn gốc và tộc danh Tày
Theo số liệu công bố năm 1999, tổng số dân 
Tày là 1.447.514 người, đứng vị trí thứ hai sau người Kinh, sống tập trung ở 
vùng Việt Bắc, chủ yếu tại Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái 
Nguyên, Lạng Sơn.
Về nguồn gốc, Tày (và Nùng) thuộc khối cư 
dân Bắc Việt cư trú lâu đời trên khu vực nam Trung Quốc và bắc Việt Nam. Quá 
trình cùng chung sống lâu dài đã chịu nhiều ảnh hưởng văn hoá Việt trở thành 
người Tày (Việt Nam) và văn hoá Hán thành người Choang Đồng (Trung Quốc). Ở 
Quảng Tây hiện nay vẫn tồn tại các nhóm Choang Đồng với các tên: Pò Choang, Pò 
Đề Di, Pò Nồng, Pò 
Tày[3].
Tộc danh Tày bắt nguồn từ cách nêu đặc điểm 
của nhóm người chuyên nghề cày ruộng, làm lúa nước, nông cụ tiêu biểu là chiếc 
cày. Trong tiếng Tày- Thái cổ cày gọi là Mạc Thay hay Thây rồi biến âm thành Tày 
và Thái[2, tr.46], bằng dụng ý rõ ràng hơn khi người Tày được gọi là Cần Nà- 
Người cày ruộng. Người Tày nói chung đều tự nhận là Cần Tày, tuỳ theo từng nơi 
có tên Tày bốc- Tày cạn sống vùng núi và Tày nặm- Tày nước làm bản dựng nhà dưới 
thung lũng nhiều sông suối. Từ thế kỷ XV để phân biệt với Thổ quan từ dưới xuôi 
lên cai trị, người Tày còn có tên là Thổ với hàm nghĩa thổ địa ám chỉ nhóm người 
đã sinh sống lâu đời nơi 
đây.

Như vậy người Tày cổ (Âu Việt) đã dung hợp 
với nhóm Việt Mường cổ (Lạc Việt) ngay từ buổi đầu dựng nước, góp phần quan 
trọng hình thành nên dân tộc Việt 
Nam.
2. Văn hoá tín ngưỡng dân gian 
Tày
Sơ đồ chỉ 
hướng:
Trong tam giáo, ảnh hưởng của đạo giáo nổi 
trội hơn, đạo giáo còn gọi là Lão giáo do Lão Tử sáng lập trước công nguyên hàng 
trăm năm, tuy vậy về sau chỉ có đạo giáo của Trương Đạo Lăng[2] phổ biến trong 
tín ngưỡng dân gian Tày, tính chất mang nhiều yếu tố shaman như: tu tiên, luyện 
đan, đồng cốt, ma thuật phù thuỷ, chiêm tinh, bói 
toán.
Như vậy, tín ngưỡng người Tày bắt nguồn từ 
thủa xa xưa, khởi sinh từ ý thức bảo vệ cộng đồng thị tộc, đây là lớp tảng nền 
sơ khai thứ nhất. Trải qua thời gian, tín ngưỡng bản địa Tày chịu sự tác động 
của người Việt khi hai tộc người Âu Việt và Lạc Việt cùng nhau liên thủ, đây là 
lớp văn hoá thứ hai, tuy vậy do tương đồng nên giữa Âu Việt và Lạc Việt luôn có 
sự gắn bó chặt chẽ. Sự xuất hiện tam giáo du nhập vào là lớp thứ ba đã biến đổi 
tín ngưỡng Tày sang dạng thức như ngày 
nay.
GS.TS Ngô Đức Thịnh nhận xét:…kết quả của 
sự hỗn dung, pha tạp giữa tín ngưỡng bản địa và tam giáo (Phật- Đạo- Nho) đã 
hình thành và tồn tại một số tín ngưỡng đặc thù: Then, Tạo, Pụt, Mo với tư cách 
là thày cúng Then, Tào, Pụt, Mo tham gia vào hầu hết các nghi lễ của tín ngưỡng 
người Tày, Nùng, từ thờ cúng tổ tiên trong gia đình tới các hình thức thờ thổ 
thần, thành hoàng của cộng đồng  [6, 
tr.5].

3. Hiện tượng 
shaman trong Then 
Tày
Bản chất Then là 
gì? Nguồn gốc như thế nào? Những biểu hiện của then trong 
tín ngưỡng người Tày ra sao? Trong nội dung này sẽ xem xét và giải mã hiện tượng 
Then.
 Có một số giả thuyết quá trình xuất hiện 
Then trong đời sống tâm linh của người Tày, dựa trên tư liệu dân gian, truyền 
thuyết từ nhiều vùng khác nhau, đặc biệt là của các tác giả ở Cao Bằng như Hoa 
Cương, Dương Sách, Triều Ân đều cho rằng Then chính thức ra đời khi nhà Mạc bị 
thất sủng chạy trốn lên Cao Bằng cát cứ (thế kỷ XVI, XVII)[9]. Đây là sự kiện 
lịch sử có thật, phản ánh giai đoạn văn hoá Việt- Tày đan cài tại Cao Bằng, để 
lại đến ngày nay trong Then nhiều trường đoạn hát bằng tiếng 
Kinh.
Hoàng Tuấn cho rằng: đại bộ phận các ông bà 
then cắt nghĩa then là tiên, là môn tiên, là trời [8,tr.88], cách giải nghĩa mở 
rộng hơn dưới góc độ dân tộc học với quan niệm Then là một từ cổ trong vốn từ 
ngữ Tày- Thái, gốc ban đầu có chung một nghĩa[8]. GS.TS Ngô Đức Thịnh[6] và PGS 
Vũ Ngọc Khánh[3] cùng chung quan niệm: Then có nghĩa là tiên, cũng như Pụt nghĩa 
là phật.
Như vậy, Then được hiểu là người cõi trời, 
giữ mối liên hệ giữa người trần gian với Ngọc Hoàng Thượng Đế trên trời, nhưng 
cách giải thích trên chưa tầm nguyên đầy đủ về Then. TS Nguyễn Thị Yên[10] tìm 
cách giải mã lớp tiền tố Then, và nêu rõ các hình thức nhập đồng tồn đọng yếu tố 
shaman giáo trong các trò chơi của trẻ em, chủ yếu là những nàng tiên/ linh hồn 
như: nàng Trứng, nàng Cám, nàng Sọt, nàng Hương mang đậm tín ngưỡng bản địa 
nguyên thuỷ. Đây là tín ngưỡng sliên (tiên)- yếu tố tiền then, chữ sliên- tiên 
vay mượn từ chữ Hán, về sau dùng để chỉ hình thức cúng bái bản địa liên quan đến 
sự nhập đồng của then 
nữ.
Để trở thành ông Then hay bà Then, người 
Tày cho rằng do căn số, ma then nhập vào. GS.TS Ngô Đức Thịnh[6] nêu hai trường 
hợp trở thành Then: a) có căn then (mỉng bang) và b) gia đình, dòng dõi có người 
làm Then (tẩn then). Trong cuộc đời làm Then, ông Then hay bà Then trải qua 
nhiều lần thăng cấp (tâng) qua lễ lẩu Then, cấp Then biểu hiện ở số lượng dải 
mũ, tương đương với số quân mà Then cai quản. Như vậy Then là người đặc biệt 
trong cộng đồng Tày, có khả năng thông quan với thần linh, khi Then thăng cũng 
có nghĩa Then đã tiếp cận với thế giới siêu nhiên, đồng thời nhập vào mọi đối 
tượng phi để bắc cầu giao tiếp với người trần gian. Về hình thức và nội dung 
Then giống như hầu đồng của người Việt, GS.TS Võ Quang Trọng nhận xét: 'hầu đồng 
của người Việt và then của người Tày là hiện tượng con người tự thôi miên để đưa 
mình vào trạng thái ảo giác đặc biệt'[7, 
tr.44].
Trong nhiều công trình, các nhà nghiên cứu 
tín ngưỡng tộc người đều nhắc đến shaman như một dạng ảo giác đặc biệt và trạng 
thái ngây ngất- estasy. Đối với Then: shaman là hiện tượng biến hoá tư duy, tinh 
thần con người từ trạng thái này sang trạng thái khác theo cách hiểu xuất thần 
nhập thần, vậy shaman là 
gì?
Thuật ngữ shaman- thày pháp xuất hiện lần 
đầu tiên trong một số tài liệu ở Nga vào thế kỷ XVII, nguồn gốc từ tiếng Evenk 
(saman) của bộ lạc Tungus chuyên sống bằng nghề chăn nuôi tuần lộc ở Xibiri, 
biến đổi từ chữ  samana- tiếng Pali (hệ tiếng sancrit) được các nhà Phương Đông 
học chấp nhận vào thế kỷ XIX[11]. Gần một thế kỷ sau, thuật ngữ shaman giáo- 
shamanism trở nên thông dụng, xuất hiện trong nhiều công trình nghiên cứu Âu, 
Mỹ. Ở Trung Quốc, hiện tượng shaman có nhiều tên gọi, tên chung là Vu thuật, 
người hành nghề shaman là Vu sư. Tuy vậy tùy từng nơi gọi là thỉnh thần phụ thể, 
thần linh phụ thể, quỷ thần phụ thể, nhưng dịch sang tiếng Việt nhiều nhất là từ 
giáng thần phụ thể, nghĩa là cầu thần nhập xác. Tại Đông Nam Á, shaman là hình 
thức tôn giáo sơ khai tự thân hình thành trong các cuộc hành lễ hiến sinh nguyên 
thuỷ, được cộng đồng đón nhận như một dạng người đặc biệt, có khả năng phi 
thường, có bí quyết và sức mạnh ma 
thuật.
Tuy vậy, thời điểm xuất hiện shaman còn có 
nhiều ý kiến khác nhau. Theo trường phái lịch sử[12] shaman ra đời vào giai đoạn 
phân rã công xã thị tộc nguyên thuỷ kèm theo sự phân công địa vị một số người. 
Trường phái dân tộc học Trung Quốc cho rằng shaman tồn tại thời trung kỳ xã hội 
thị tộc mẫu hệ, lúc này vai trò người phụ nữ có quyền năng rất lớn. Với trường 
phái sinh học phát triển, shaman là hiện tượng của người mắc bệnh cuồng itteri, 
một loại bệnh thần kinh, nói cách khác tất cả các thày shaman đều biểu hiện bệnh 
thần kinh dạng phân tâm học được Freud phát hiện đầu thế kỷ XX. Khi hành nghề, 
các thầy shaman (cả nam lẫn nữ) bị kích động toàn thân, thực hiện những hành 
động đặc biệt lúc bình thường ít người làm được như: đi trên than nóng, đoán 
định tương lai, thần nhập, nói bằng ngôn ngữ chưa bao giờ học, hát múa suốt 
ngày…thực tế shaman là hiện tượng tồn tại trong hầu hết tất cả các tộc người 
trên thế 
giới.
GS.TSKH Tô Ngọc Thanh nêu bản chất shanman 
là tạo nên yếu tố thiêng phát xuất khi tiến hành nghi lễ (trong then Tày và hầu 
đồng Việt), từ đó lan toả khắp xung quanh, khiến mọi đối tượng tham gia đều chịu 
ảnh hưởng. Điều kiện để thiêng hình thành là âm nhạc, múa, do đó Then không thể 
thiếu hai loại hình nghệ thuật này cùng tham gia. TS Nguyễn Thị Hiền[1] khi tiến 
hành khảo sát thực tế nghề làm Then tại một số địa bàn người Tày cho biết hầu 
hết sau lễ cúng, các ông Then, bà Then đều không nhớ lại được hành động, ngôn 
ngữ khi rơi vào trạng thái xuất thần lúc hành 
lễ.

4. Các thành tố diễn xướng trong nghệ thuật 
Then
Phương tiện hành nghề Then 
gồm:
- Quả trứng, chim én: là vật thiêng đóng 
vai trò dẫn hồn 
Then.
- Bằng sắc và ấn của Ngọc Hoàng cấp để Then 
vào các cửa thần 
linh.
- Quạt phép (quạt trời): giúp Then tạo 
nhiều động tác biến hoá như bay bổng trên mây, xuống âm phủ, đi dưới 
nước.
- Gương dùng trừ tà, soi sáng đường Then 
đi.
- Đàn Tính: nguồn khải lực để Then thoát 
hồn, thông quan với các loại thần 
linh.
- Chùm xóc nhạc- Miạc: lực lượng âm binh để 
Then sai 
khiến.
Những đồ vật biểu trưng linh giáo như: 
trứng, chim én, gương, quạt qua tay Then đầy tính ma thuật dưới dạng phù thuỷ. 
Nhưng nổi trội và tạo nên giá trị thu hút toàn thể cộng đồng là nghệ thuật Then- 
nhân lõi cốt yếu xuyên suốt quá trình xuất, nhập thần. Nhiều nhà nghiên cứu đồng 
nhất ý kiến: Then Tày là hiện tượng văn hoá dân gian tổng thể có tính nguyên hợp 
(syncretic), là hình thức nghi lễ diễn xướng nghệ thuật tổng hợp gồm có hát, 
nhạc, múa, trang phục [7,tr.44], hoặc then là một nghi lễ tôn giáo được diễn 
xướng bằng hình thức hát, hát kể có kèm theo nhạc và nhảy múa, ngoài ra còn có 
những biểu tượng tôn giáo mang tính tượng trưng và nhiều yếu tố sân khấu dân 
gian[1,tr.74]. PGS.TS Nguyễn Thuỵ Loan tham chiếu các hệ thống tín ngưỡng tộc 
người ở Việt Nam đã khái quát:…tín ngưỡng tôn giáo là một trong những môi trường 
quan trọng cho sự sáng tạo và nảy sinh âm 
nhạc…[4,tr.65].
Như vậy, diễn xướng nhạc- hát- múa là động 
cơ bên trong nảy sinh không gian thiêng, giúp Then thăng, hoá, xuất, nhập trên 
đường (tàng) đi. Nếu như hầu đồng của người Việt là hiện tượng nhập hồn thì hành 
trạng Then Tày biến đổi theo hướng ngược lại, nghĩa là thoát hồn. X.A Tôcarev 
cho rằng có hai hình thức giao tiếp với thần linh:…hoặc thần linh nhập vào người 
thầy pháp (hay vào trống của thầy), hoặc ngược lại, hồn thầy pháp chu du lên xứ  
sở thần linh…[11,tr.330]. Quá trình thoát xác xảy ra lúc Then ngồi bỗng rùng 
mình mấy cái, tay cầm chùm xóc nhạc rung rung rồi rơi vào trạng thái estasy- ảo 
giác ngây 
ngất.
Cùng với đàn tính, chùm xóc nhạc thì hát 
Then là môi trường để Then múa các động tác khi thoát hồn. Trên toàn bộ 5 tỉnh 
Việt Bắc mỗi vùng đều sử dụng hệ thống làn điệu 
riêng:
- Lạng Sơn: Giải hạn, Cáp tơ hồng, Tiển 
cổm, Pây 
sử.
- Cao Bằng: Pây Sử, Kỳ Yên, Cái cấu cầu 
Bjoóc, Hỉn 
ẻn.
- Bắc Kạn: kẻn Bjoóc, Khảm hải, Kỳ yên, Cái 
cấu cầu hoa, Hỉn ẻn, Bách 
điểu.
- Tuyên Quang: Lẩu 
luông.
- Hà Giang: toàn bộ các làn điệu trong Lẩu 
Then.
Hệ thống làn điệu này không cố định, phần 
lớn tuỳ theo ông bà Then sử dụng vào trình tự cuộc lễ, ví dụ như ở Thất Khê- 
Lạng Sơn ngoài các làn điệu trên còn có: điệu Cống sử dùng trong lễ cúng trẻ em, 
Tò mạy ở lễ giải hạn, Suôi lừa hát khi Then làm động tác chèo thuyền, Khẩu tu 
vùa lúc Then đến cung Ngọc Hoàng…ngoài ra còn chia làn điệu làm 2 
kiểu:
- Tàng bốc: đi đường trên 
cạn.
- Tàng nặm: đi đường dưới 
nước.
Cũng giống như dân ca của nhiều tộc người 
trên đất nước Việt Nam, phương thức truyền khẩu, tự ứng tác trong hát Then là 
hiện tượng phổ biến. Mỗi Then đều xây dựng motif- Âm hình giai điệu riêng ngay 
từ khi bắt đầu bước vào hành nghề, dần dần Then tiếp thu nhiều làn điệu khác 
nhau mang âm hưởng dân ca nơi Then sống. Điển hình như điệu lượn Then có gốc 
giai điệu từ lượn cọi- lối hát giao duyên nam nữ tỏ 
tình.
Cách hát trong Then phần lớn là hát nói 
(hoặc nói như hát) mang tính tự sự, kể chuyện, mô tả trên nền nhịp điệu không ổn 
định về tiết tấu. Đây cũng là đặc điểm khu biệt giữa Then Tày và hầu đồng Việt, 
nguyên do nguồn âm điệu dân ca Tày hiếm gặp cấu trúc giai điệu dí dỏm, nghịch 
ngợm, tốc độ nhanh, hoạt, rộn rã. Hoàng Tuấn[8] phân định hát Then làm ba dạng 
dựa theo tính chất biểu hiện của giai 
điệu:
- Loại cầu khẩn niệm 
chú.
- Loại giãi bày tâm 
sự.
- Loại kể lể, mô 
tả.    
Từ phân loại trên cho thấy hát Then mang 
đặc tính cầu khẩn, giãi bày, kể lể tạo nên kiểu hành lễ trong màu sắc tối. Thời 
điểm diễn ra nghi lễ Then chủ yếu trong đêm tối, như vậy Then diễn xướng trong 
một không gian tối, tất cả đều mang lại cảm giác hư hư thực thực, mờ ảo gợi lên 
vẻ huyền bí, âm u. Nếu vào ban ngày thì Then thoát hồn trong nhà, tại những nơi 
ít ánh sáng chiếu 
vào.
Cây đàn cùng với hát Then là Tính tẩu, một 
sáng tạo đặc sắc của người Tày lấy chất liệu sẵn có từ môi trường thiên nhiên. 
Xung quanh sự ra đời cây đàn Tính nhiều huyền thoại, truyền thuyết được thêu 
dệt, lưu truyền trong dân gian. Tính là âm tượng thanh tính, tình, tang đặt tên 
cho cây đàn, tẩu nghĩa là quả Bầu chỉ rõ bầu đàn làm từ quả Bầu. Những câu 
chuyện về sự ra đời đàn Tính lưu truyền khắp mọi nơi trong cộng đồng người Tày 
như: Pụt Luông- Bụt lớn sai con gái dạy cho loài người biết lượn, làm đàn Tính. 
Chuyện ông Bế Văn Phụng[9] chế tác đàn Tính phục vụ nhà Mạc trên Cao Bằng. 
Chuyện về chàng Xiên Câm, người lấy lá cây Dâu từ trên trời về nuôi tằm, xe sợi 
tạo dây đàn, trồng cây Bầu lấy quả Bầu chế thành bầu đàn, cán đàn sừng đàn làm 
từ cây khảo hương và cây lý, những loài cây có hương thơm mọc khắp nơi, ra hoa 
đẹp nở suốt bốn mùa. Các truyền thuyết trên là niềm tự hào của người 
Tày. 
Dây đàn Tính truyền thống trước đây dùng tơ 
tằm xe lại, sau đó lấy sáp ong hoặc nhựa củ nâu chuốt đi chuốt lại nhiều lần 
giúp dây bền và không rè, hiện nay được thay thế bằng dây nilông. Đàn Tính 2 dây 
lên dây theo hai kiểu quãng: 4 đúng (rê- sol), 5 đúng (đô- sol), nhiều vùng như 
Bắc Kạn, Lạng Sơn đàn Tính lên dây thấp hơn 1 cung: đô- fa. Còn đàn 3 dây cách 
mắc khá đặc biệt: giữa dây dưới- rê và dây trên- sol, dây giữa có cao độ thấp 
hơn một quãng 8 đúng so với dây trên (rê- sòl- sol), hiệu quả tạo nên âm trầm 
trì tục khi 3 dây cùng vang lên. Tiếng đàn Tính gọn gàng, ấm áp, hơi đục do hộp 
cộng hưởng vỏ quả Bàu có mấy lỗ thoát hơi nhỏ đằng sau. Về kỹ thuật diễn tấu, 
người Tày gảy chủ yếu bằng ngón trỏ, các ngón giữa và áp út chỉ có những người 
đạt tới trình độ tương đối điêu luyện mới sử dụng. Đàn Tính là loại nhạc cụ của 
nghi lễ cầu cúng do đó ngày trước ít xuất hiện trong sinh hoạt hát dân 
ca.
Đồng hành với hát Then, đàn Tính là chùm 
xóc nhạc- Miạc gồm nhiều quả nhạc nhỏ ghép lại, nối với nhau bằng các vòng tròn 
bằng sắt hoặc bằng đồng. Xét nguồn gốc ra đời, Hoàng Tuấn[8] đưa ý kiến rất đáng 
chú ý, Miạc xuất hiện gắn liền với động tác nhảy múa thời nguyên thuỷ, xuất xứ 
ban đầu là các chùm quả khô bên trong có hạt nhỏ đeo xung quanh người, trải theo 
thời gian dần biến đổi thành chùm xóc nhạc như ngày nay. Trong nghi lễ hát Then, 
chùm xóc nhạc tượng trưng cho những chiếc vòng lục lạc trên cổ ngựa, khi chạy 
phát ra âm thanh nghe réo rắt, do đó Miạc có tên khác là Xáu mạ, nghĩa đen là 
nhạc ngựa. Nghề Then coi chùm xóc nhạc như con ngựa thiêng được ông bà Then cưỡi 
dẫn đoàn quan quân lên thiên giới. Giọng hát, đàn Tính, chùm xóc nhạc vang lên 
tạo thành tổ hợp âm sắc gây ấn tượng đặc biệt, người Tày tin rằng đó là sự tổng 
hoà các thứ tiếng có trong trời đất qua mối quan hệ biểu tượng: thiên- địa- 
nhân. Đàn Tính do tiên trời ban cho, chùm xóc nhạc như đoàn âm binh dưới đất, và 
giọng hát đại diện cho người cùng muôn loài trên dương gian. Về âm nhạc, Miạc 
luôn tạo nên các nhóm tiết tấu khác nhau, dẫn dắt tiếng đàn điệu hát nhịp nhàng, 
ổn định, sự kết hợp không cố định giữa các quả nhạc xóc khi rung, lắc tạo âm 
thanh đa chiều, có màu sắc riêng không lẫn lộn với bất cứ nhạc cụ tự thân vang 
nào khác.
Cùng với âm nhạc (đàn Tính, chùm xóc nhạc, 
giọng hát) không thể không nhắc tới trang phục Then, nổi trội và đặc trưng nhất 
trong nghi lễ cấp sắc Lẩu Then. Màu sắc quần áo then mặc chủ yếu dùng các gam 
màu nguyên tông như: đỏ, vàng, tím, trắng, chàm, khác hẳn với kiểu phối màu của 
hầu đồng người Việt. Mỗi màu Then mặc đều ứng với từng vị thần linh, do đó trong 
một buổi lễ Then phải thay đổi y phục nhiều lần, đây là ước định giúp Then phô 
diễn hết khả năng trong mỗi hình thức nghi lễ nhất định. Tính thuần nhất về màu 
phân biệt rõ ràng giữa Then và người bình thường trong ăn mặc sinh hoạt hàng 
ngày. Lễ phục Then mặc kết hợp với không gian nghi lễ đã hình thành nên một sân 
khấu dân gian rực rỡ sắc màu, ở đó Then đóng vai chính toàn bộ buổi biểu diễn. 
Sự sắp đặt trình tự lễ theo quy trình thời gian được Then chuẩn bị chu đáo. Đó 
chính là những nghệ nhân trình diễn nghệ thuật dân gian đặc sắc, sản phẩm kết 
tinh từ văn hoá Tày kế thừa toàn bộ di sản truyền thống, tự thân phát triển tới 
trình độ ngày càng hoàn thiện hơn. Trải qua thời gian, những nghệ nhân Then đã 
phát huy tối ưu kinh nghiệm, hiểu biết nghề Then, được cộng đồng chấp nhận như 
người ưu tú, tiêu biểu cho phức hệ tín ngưỡng 
Tày.
5. Tạm dừng nội dung- thay cho lời 
kết
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Then 
Tày, đặc biệt trong lĩnh vực văn hoá dân gian, dân tộc học, ngữ văn. Nhưng về âm 
nhạc học nói chung và âm nhạc tộc người nói riêng từ trước đến nay không nhiều, 
có thể nêu một số nhà nghiên cứu tiêu biểu: GS.TSKH Tô Ngọc Thanh, PGS.TS Thuỵ 
Loan, nhạc sĩ Hoàng Tuấn, nhạc sĩ Nông Thị Nhình…tất cả đều xuất phát từ nhận 
thức độc lập, say mê với làn điệu dân ca vùng, miền. Tác giả viết bài này chỉ 
mong muốn tìm tòi, suy ngẫm những thành quả đã đạt được của nhiều người đi 
trước. Bởi âm nhạc tộc người ở Việt Nam vẫn là mảnh đất luôn thu hút nhiều sự 
quan tâm hơn, cần nghiên cứu sâu và có hệ 
thống.
Then Tày ẩn chứa đa phức thể nguyên hợp, 
định dạng nghiên cứu Then từ nhiều lĩnh vực khác nhau góp phần giải mã hiện 
tượng Then, hình thái văn hoá- tín ngưỡng- nghệ thuật tiêu biểu của người Tày, 
từ đó góp phần sáng tỏ các phương thức diễn xướng dân gian của nhiều tộc người 
khác trên đất nước Việt Nam.
 Trần Hoàng 
Tiến





