Dân Tày là tộc người chiếm đa số trong cộng
đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam. Họ cư trú tập trung thành những bản nhỏ ở
ven các sườn núi, các thung lũng, hay các cánh đồng màu mỡ. Họ sinh sống chủ yếu
bằng nghề nông nghiệp và chăn nuôi đại gia súc. Từ bao đời nay, Người Tày sinh
sống trên ngôi nhà sàn truyền thống, cùng với trang phục, ngôn ngữ, chữ viết,
phong tục tập quán cấu thành bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của đồng bào,
trong đó ngôi nhà sàn đã trở thành niềm tự hào của người Tày và họ đang cố gắng
gìn giữ trong điều kiện kinh tế phát triển như hiện nay.
Tuy nhiên, người Tày cũng đang mất dần đi
những nét văn hoá truyền thống đặc trưng trước đây, kể cả văn hoá vật chất lẫn
văn hoá tinh thần. Nếu nền kinh tế trước đây của đồng bào chủ yếu là khép kín,
tự cung, tự cấp, tính chất phác thật thà đã nhập vào bản than nó những yếu tố xã
hội hoá và người Tày ngày càng thích ứng với các mối quan hệ làm ăn, trao đổi
sản phẩm dịch vụ cũng như các mối quan hệ giao tiếp về văn hoá tinh thần. Những
chàng trai, cô gái Tày ngày nay không thích mặc những bộ quần áo chàm dân tộc
truyền thống, họ cũng không biết dệt vải nhuộm chàm, thêu thổ cẩm như trước đây
nữa. Những ngôi nhà sàn truyền thốngđang dần được thay thế, cải tạo đề phù hợp
với điều kiện sống mới, nên các giá trị văn hóa truyền thống được hình thành từ
lâu đời trong phương thức sử dụng ngôi nhà sàn truyền thống cũng đang dần bị mai
một đi trong điều kiện nền kinh tế, văn hóa, xã hội của cả nước đang có những
biến đổi sâu sắc, kinh tế thị trường mở cửa, giao lưu quốc tế ngày càng được mở
rộng đã tác động và ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa dân
tộc.
Vì vậy, việc bảo lưu gìn giữ những nét đẹp
truyền thống văn hóa dân tộc là điều cần thiết. Trong khuôn khổ bàì viết này sẽ
đề cập đến văn hóa ứng xử của người Tày xung quanh bếp lửa nhà sàn nhằm góp phần
giới thiệu, quảng bá những nét đẹp văn hóa khu vực miền núi trong hoạt động du
lịch.
1.Phương thức sử dụng ngôi nhà sàn truyền
thống của người
Tày.
Ngày nay, thói quen sinh sống trong nhà sàn
của người dân miền núi vẫn không thay đổi, hầu như mọi hoạt động đều diễn ra ở
đây: thờ cúng tổ tiên, tiếp khách, nấu nướng, ăn uống và đồng thời cũng là nơi
thêu thùa, dệt vải, dệt chăn, dệt thổ cẩm… Ngay cả sân phơi cũng được bố trí
trên sàn, nó là một phần của ngôi nhà và ở vị trí thấp hơn sàn nhà chính từ 1
đến 2 bậc lên xuống, nhằm cách biệt với không gian chính. Phía dưới nhà sàn
thường để trống hoặc chỉ quây lại một phần nhỏ để nhốt gia súc, gia
cầm.
Bước vào thăm một ngôi nhà của đồng bào
Tày, Nùng, chúng ta thấy cửa nhà sàn có thể mở ở trước mặt (có nơi làm cửa ở đầu
hồi), cửa chính đặt ở ngay cầu thang lên xuống, còn cửa phụ là nơi ra bếp hoặc
ra sàn phơi. Một số nơi đồng bào trổ cửa ở phía sau hoặc phía trước ngôi nhà.
Ðặc điểm ngôi nhà sàn là ấm về mùa đông, thoáng mát về mùa hè. Những phiên nứa
quanh nhà có thể chống lên như cửa sổ để đón gió
mát.
Ngôi nhà sàn là một kiểu nhà tổng hợp, được
sử dụng hợp lý và tối đa để phục vụ đời sống con người. Nhà sàn thường cao từ
bảy đến tám mét, chiều sâu từ năm đến chín hàng cột. Trong nhà sàn gác có thể
làm ở tất cả các gian và thường được sử dụng đặt bồ dậu, chum đựng các sản phẩm
nông sản như lúa, ngô, khoai... Sàn là nơi tập trung sinh hoạt của gia đình. Gầm
sàn là nơi để dụng cụ sản xuất như cuốc, xẻng, máy tuốt lúa. Có nơi đồng bào còn
để nhốt gia súc, gia cầm (bây giờ nhiều nơi đã bỏ hẳn). Sân phơi thường làm bằng
gỗ ván ở trước ngôi nhà, vừa để trẻ con chơi, vừa làm nơi phơi thóc, lúa, ngô
khoai đồng thời cũng là chỗ để hóng mát hưởng
trăng...
Ngôi nhà sàn thể hiện rõ phong tục tập
quán, nền nếp trật tự trong gia đình người Tày, Nùng. Bố cục trong ngôi nhà sàn
thường được chia ra làm hai phần theo chiều ngang hay chiều dọc ngôi nhà (tính
từ cửa chính), nửa trên (phía gần bàn thờ) gần cửa chính là nơi diễn ra mọi sinh
hoạt của nam giới, đồng thời là nơi tiếp khách. Nửa dưới phía sau bàn thờ dành
cho phụ nữ. Có nơi bàn thờ đặt ở gần gian kề gian chính giữa, song cách bố trí
các thành viên nam, nữ trong gia đình cũng tương tự như
thế.
Trong nhà sàn thường có hai bếp, bếp chính
và bếp phụ. Bếp thường đặt ngay sau bàn thờ, bếp chính dùng để nấu nướng hằng
ngày, còn bếp phụ bên cạnh xây bằng gạch mộc, trát đất dùng để nấu rượu, nấu cám
lợn. Những gian cuối cùng để đựng đồ dùng gia đình: chạn bát, thúng mẹt, chum
nước ăn... Ở những nơi có điều kiện nước thuận lợi, dân bản thường dẫn mắc một
hệ thống máng nước đơn giản bằng cây vầu để đưa nước từ khe suối, đồi về tận sàn
nhà. Ðồng bào còn làm một thùng chứa nước bằng thân cây gỗ to, đục rỗng có thể
chứa được từ một đến hai gánh nước, nước này dùng để rửa chân tay khi khách lên
nhà chơi.
Tập quán của đồng bào Tày, Nùng thường bố
trí buồng ngủ như sau: buồng con dâu cả ở gian đầu rồi đến buồng con dâu thứ
hai, ba... Con gái nếu chưa lập gia đình sẽ ở buồng cuối, sau buồng các chị dâu.
Giữa các buồng được ngăn cách với nhau bằng ván hoặc phên nứa. Tập quán còn quy
định bố chồng, anh/ em chồng không được vào buồng con dâu, chị/ em dâu. Nếu có
khách con gái, con dâu thường tiếp khách ở trong buồng của mình hoặc bếp. Không
tiếp khách ở trên nhà và trước bàn thờ tổ
tiên.
Cho đến giờ nhiều nơi vẫn còn tập quán con
dâu, con gái không ngồi ăn cơm cùng với bố chồng, anh/ em chồng. Bữa cơm gia
đình phải được dọn hai mâm, âu cũng là nét văn hóa độc đáo riêng biệt của những
chủ nhân ngôi nhà sàn. Nếu đến Lạng Sơn, du khách sẽ ghé thăm một vài làng Tày
cổ ở Văn Lãng, Tràng Ðịnh theo tuyến đường 4A hoặc các làng Tày cổ ở Văn Quan,
Bình Gia, Bắc Sơn... có rất nhiều điều thú vị đang chờ bạn. Ngày nay, do những
loài cây quý hiếm không còn, nhiều nơi bà con cải tiến ngôi nhà sàn làm tầng
dưới thấp hơn hoặc làm nhà bằng các cột xi-măng, sắt thép, nhưng vẫn giữ dáng
dấp của ngôi nhà sàn truyền
thống.
2.Bếp lửa nhà sàn và các mối quan hệ trong
gia đình người
Tày.
Bếp lửa nhà sàn của người Tày, ngoài việc
là nơi sưởi ấm, nấu nướng, bếp núc của gia đình, bếp lửa còn là nơi phân chia vị
trí, vai vế của các thành viên trong gia đình. Từ bếp lửa nhà sàn tỏa ra các mối
quan hệ ứng xử tạo thành một hệ thống giao tiếp rất nhịp nhàng, chặt chẽ, thoải
mái và được truyền từ đời này qua đời khác, trở thành sinh hoạt văn hóa vô cùng
phong phú, sinh động trong kho tàng văn hóa tộc người của
mình.
Dưới một mái nhà sàn có thể chung sông ba
hoặc bốn thế hệ ông, bà, cha mẹ, con, cháu. Trong giao tiêp ứng xử của gia đình,
vai trò thứ bậc nổi lên rất rõ; thế hệ trứơc; thế hệ kế tiếp; thế hệ sau với các
duy danh và các mối quan hệ chằng chịt khác nữa. Về cấu trúc gia đình của người
Tày không khác gì những gia đình của người Kinh ở vùng đồng bằng hay thành phố.
Tuy nhiên, phép cư xử của người Tày có sự khác biệt chính là ở xung quanh bếp
lửa nhà sàn. Bếp lửa nhà sàn của người Tày được đặt ở phần giữa nhà hơi chếch
tránh thẳng vào bàn thờ tổ tiên. Theo phong tục của người Tày, bếp lửa là cái
mốc, là trung tâm của sự phân định các mối quan hệ trong gia đình. Từ bếp lửa
toả ra các mối quan hệ, ứng xử có sắp đặt sẵn theo khuôn mẫu mà các thành viên
trong gia đình phải tuân
thủ.
Bếp lửa nhà sàn hình chữ nhật, chiều rộng
khoảng 1 mét, chiều dài 1,5 mét, đủ để nhóm 2 hai bếp khi cần thiết. Xung quanh
bếp được phân định rõ ràng theo bốn phía: Nà Tấư (phia dưới), tính từ của đi vào
la vị trí của con dâu, con gái, cũng là nơi để ngồi nấu nướng, bếp núc. Nà Nưa
(phía trên) luôn luôn được chải chiếu hoa lịch sự là vị trí dành cho chủ gia
đình, đàn ông, con trai, khách quý là đàn ông. Hai bên gọi là Nà Khoang, gồm có
Nà khoang đâng (phía trong) dành cho bà, mẹ và khách là đàn bà; Nà Khoang Noóc
(phía ngoài) dành cho đàn ông ít tuổi, con rể. Con rể, đàn bà kể cả khách là đàn
bà muốn đi vào trong nhà đều phải đi qua Nà Tấư. Vào một gia đình người Tày, gặp
những lúc cả nhà ngồi quây quần bên bếp lửa, ta sẽ dễ dàng nhận ra từng thành
viên trong gia đình, bởi vị trí ngồi của
họ.
Bàn thờ tổ tiên cũng là ranh giới phân định
vị trí của các thành viên trong gia đình trong việc ăn, ở và sinh hoạt. Bàn thờ
tổ tiên được đặt đối diện với cửa ra vào, chia diện tích ngôi nhà làm hai hần
bằng nhau. Phần phía dưới bao gồm cả Nà Khoang, Na tâư là chỗ ngủ của phụ nữ và
bếp núc, phần phía trên, từ Nà Nưa trở lên có cửa sổ thoáng mát (nhà sàn chỉ làm
cửa sổ một phía) dành cho đàn ông và khách quý ngủ, nghỉ. Con gái ở trong nhà
có thế ngủ chỗ nào cũng được, nhưng con trai, đàn ông trong nhà không bao giờ
ngủ ở phía dưới bàn thàn, ngược lại bà, me, các con dâu không ngủ ở phía trên
bàn thờ. Đàn bà ở cữ không được ngồi bếp lửa trong vòng 40 ngày, không được quét
nhà trước bàn thờ tổ tiên. Sự phân định và xếp đặt đã đưa nếp sống và hành vi
ứng xử của các thành viên vào nề nếp, hình thành đạo đức tốt đẹp của trong gia
đình, tự mỗi thành viên trong gia đình phải thích ứng với nề nếp sinh hoạt đó.
Thế hệ trước truyền cho thế hệ sau rất khuôn phép,cũng từ những khuôn phép đó
tạo thành hệ đạo đức chung của cả cộng đồng, rất ít có những hành vi vô đạo đức,
hoặc nếu có, thì những nề nếp, khuôn phép đó làm cho nó tự triệt
tiêu.
Cũng giông như những gia đình của người
Việt, người đàn ông trong gia đình người Tày chiếm vị trí quan trọng, là trụ cột
trong gia đình, quyết định các công việc trọng đại như tang ma, hiếu hỷ, giỗ
tết, gả cưới và các công việc đối nội, đối ngoại trong thân tộc họ hàng cũng
hàng xóm láng giềng khác, và là người được thừ kế tài sản. Người con dâu trưởng
chịu trách nhiệm mọi công việc như chi tiêu, ăn uông và cách sắp đặt, điều phối
nguồn nhân lực trong lao động sản xuất (Lùa ké, mé rườn). Những người đàn bà
trong gia đình, đặc biệt là con dâu, không kể trưởng hay thứ phải là người có
trách nhiệm giữ cho bếp lửa cũng như ngọn lửa hạnh phúc của gia đình luôn cháy
rực và ấm
áp.
Như vậy, quan hệ ứng xử trong gia đình
người Tày rất mạch lạc, không dẫm đạp lên nhau, ít phủ quyết lẫn nhau cộng với
những phong tục tập quán tốt đẹp đã tạo nên những nét đẹp tiêu biểu của truyền
thống văn hoá của tộc
người.
3. Bếp lửa nhà sàn và hệ thống nghi thức
trong sinh hoạt lễ tết, tang ma, cưới
xin.
Người Tày có rất nhiều tục lệ, trong đó sự
sùng bái thần linh và tổ tiên luôn ngự trị trong đầu óc con người, tạo nên những
mối giao cảm đặc biệt giữa con người với thần linh được thể hiện bằng một hệ
thống những nghi thức ứng xử với thần linh rất mạch lạc, trong đó bếp lửa là
trung tâm. Người Tày coi bếp lửa cũng là một vị thần, những gia đình có người
làm Mo, làm Then đều pahỉ lập bàn thờ cúng thần lửa (thần bếp). Bếp lửa mang đến
sự ấm áp, hạnh phúc, sự làm ăn may mắn, phát đạt, nên bếp lửa không bào giờ tắt.
Việc đun bếp cũng có những quy tắc nhất định như: đun củi không được cho ngọn
vào trước, sợ cây trồng sẽ không mọc được, đàn bà sẽ đẻ ngược; nhà có tang không
được đun củi lấy từ những cây mà họ cho rằng có thần linh trú ngụ như cây Si,
cây Móc; không được đun rơm, rạ sợ đốt mất hồn lúa….Nếu người Kinh cho rằng ngày
23 tháng Chạp là ngày Ông Táo về chầu Trời, thì người Tày lại lấy ngày Tết
Nguyên đán là ngày ông Táo về chầu Trời. Ngày 30 tết, sau khi cúng lễ tất niên
song, bếp lửa được nghỉ đến 3 giờ sáng ngày mùng Một , không ai được đun nấu gì
trong thời gian đó, để vua bếp lên Thiên đình báo cáo công việc của gia đình.
Người ta cho một cái kiềng ba chân đặt ngược ở dưới bàn thờ cúng Thổ Công (người
Tày cúng Thổ Công ở góc nhà). Sáng mùng Một tết gia đình phải làm lễ khai bếp,
người đàn ông chủ gia đình (ông bố hoặc con trai trưởng) duy nhất một lần trong
năm dậy sớm đi lấy nước thiêng ở đầu nguồn hoặc giếng thần về nhóm bếp, đun nước
lá thơm cúng tổ tiên và cho cả gia đình rửa mặt, chúc cho cả gia đình một năm
mới mạnh khoẻ, bình an. Còn lại quanh năm người con dâu hoặc con gái lớn có
trách nhiệm dậy sớm hơn mọi người, nhóm bếp đun nước ấm để cả nhà rửa mặt, đồng
thời giữ cho bếp đỏ lửa đến khi kết thúc một ngày làm việc.. Người con dâu khi
về nhà chồng, việc đầu tiên là đi qua bếp lửa chất một que củi vào bếp mới được
đi vào buồng. Con gái lớn lên, khi đi lấy chồng hải vái lạy tổ tiên, lạy Nà táng
( cửa sổ) và lạy bếp lửa mới được bước ra khỏi cửa. Tục lệ này rèn luyện, giáo
dục cho người phụ nữ Tày phẩm chất chăm chỉ, chu đáo, đảm đang. Mặt khác, cũng
thể hiện sự phân công rõ ràng trong gia đình và khẳng định vai trò quan trọng
của người phụ nữ trong việc giữ gìn, chăm lo bếp lửa luôn được cháy sáng, cũng
như việc chăm lo cho hạnh phúc gia đình luôn được thắm
đượm.
Hệ thống giao tiếp ứng xử của người Tày bao
gồm các khuôn mẫu ứng xử trong gia đình, họ hàng thân tộc và lễ hội… tạo thành
một cơ cấu tổ chức quan hệ, giao tiếp nhịp nhàng, hợp lý. Trong phạm vi giao
tiếp của cá nhân, gia đình xung quanh bếp lửa nhà sàn đã vẽ nên bức tranh phong
phú, đặc sắc về đời sống văn hóa của tộc người Tày. Tiếc rằng ngày nay, do ảnh
hưởng của công cuộc đổi mới về văn hóa trong việc xây dựng làng văn hóa, xây
dựng nếp sống văn minh gia đình văn hóa và đặc biệt là phong trào xây dựng nông
thôn mới đang được triển khai, do nhận thức hạn chế của nhiều cán bộ công chức
cấp cơ sở trong việc vận động các phong trào này làm cho rất nhiều ngôi nhà sàn
cổ đã bị biến dạng ở nhiều địa phương. Bếp lửa đã được tách đưa ra khỏi nhà,
thay vào đó là tủ lạnh, bếp ga, ghế sa lông hiện đại ….Điều đó đã làm thay đổi
và mất dần đi những nét đẹp văn hóa truyền thống của đồng bào
Tày.
Dương Thị Lâm
Dân Tày là tộc người chiếm đa số trong cộng
đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam. Họ cư trú tập trung thành những bản nhỏ ở
ven các sườn núi, các thung lũng, hay các cánh đồng màu mỡ. Họ sinh sống chủ yếu
bằng nghề nông nghiệp và chăn nuôi đại gia súc. Từ bao đời nay, Người Tày sinh
sống trên ngôi nhà sàn truyền thống, cùng với trang phục, ngôn ngữ, chữ viết,
phong tục tập quán cấu thành bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của đồng bào,
trong đó ngôi nhà sàn đã trở thành niềm tự hào của người Tày và họ đang cố gắng
gìn giữ trong điều kiện kinh tế phát triển như hiện nay.
Tuy nhiên, người Tày cũng đang mất dần đi
những nét văn hoá truyền thống đặc trưng trước đây, kể cả văn hoá vật chất lẫn
văn hoá tinh thần. Nếu nền kinh tế trước đây của đồng bào chủ yếu là khép kín,
tự cung, tự cấp, tính chất phác thật thà đã nhập vào bản than nó những yếu tố xã
hội hoá và người Tày ngày càng thích ứng với các mối quan hệ làm ăn, trao đổi
sản phẩm dịch vụ cũng như các mối quan hệ giao tiếp về văn hoá tinh thần. Những
chàng trai, cô gái Tày ngày nay không thích mặc những bộ quần áo chàm dân tộc
truyền thống, họ cũng không biết dệt vải nhuộm chàm, thêu thổ cẩm như trước đây
nữa. Những ngôi nhà sàn truyền thốngđang dần được thay thế, cải tạo đề phù hợp
với điều kiện sống mới, nên các giá trị văn hóa truyền thống được hình thành từ
lâu đời trong phương thức sử dụng ngôi nhà sàn truyền thống cũng đang dần bị mai
một đi trong điều kiện nền kinh tế, văn hóa, xã hội của cả nước đang có những
biến đổi sâu sắc, kinh tế thị trường mở cửa, giao lưu quốc tế ngày càng được mở
rộng đã tác động và ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa dân
tộc.
Vì vậy, việc bảo lưu gìn giữ những nét đẹp
truyền thống văn hóa dân tộc là điều cần thiết. Trong khuôn khổ bàì viết này sẽ
đề cập đến văn hóa ứng xử của người Tày xung quanh bếp lửa nhà sàn nhằm góp phần
giới thiệu, quảng bá những nét đẹp văn hóa khu vực miền núi trong hoạt động du
lịch.
1.Phương thức sử dụng ngôi nhà sàn truyền
thống của người
Tày.
Ngày nay, thói quen sinh sống trong nhà sàn
của người dân miền núi vẫn không thay đổi, hầu như mọi hoạt động đều diễn ra ở
đây: thờ cúng tổ tiên, tiếp khách, nấu nướng, ăn uống và đồng thời cũng là nơi
thêu thùa, dệt vải, dệt chăn, dệt thổ cẩm… Ngay cả sân phơi cũng được bố trí
trên sàn, nó là một phần của ngôi nhà và ở vị trí thấp hơn sàn nhà chính từ 1
đến 2 bậc lên xuống, nhằm cách biệt với không gian chính. Phía dưới nhà sàn
thường để trống hoặc chỉ quây lại một phần nhỏ để nhốt gia súc, gia
cầm.
Bước vào thăm một ngôi nhà của đồng bào
Tày, Nùng, chúng ta thấy cửa nhà sàn có thể mở ở trước mặt (có nơi làm cửa ở đầu
hồi), cửa chính đặt ở ngay cầu thang lên xuống, còn cửa phụ là nơi ra bếp hoặc
ra sàn phơi. Một số nơi đồng bào trổ cửa ở phía sau hoặc phía trước ngôi nhà.
Ðặc điểm ngôi nhà sàn là ấm về mùa đông, thoáng mát về mùa hè. Những phiên nứa
quanh nhà có thể chống lên như cửa sổ để đón gió
mát.
Ngôi nhà sàn là một kiểu nhà tổng hợp, được
sử dụng hợp lý và tối đa để phục vụ đời sống con người. Nhà sàn thường cao từ
bảy đến tám mét, chiều sâu từ năm đến chín hàng cột. Trong nhà sàn gác có thể
làm ở tất cả các gian và thường được sử dụng đặt bồ dậu, chum đựng các sản phẩm
nông sản như lúa, ngô, khoai... Sàn là nơi tập trung sinh hoạt của gia đình. Gầm
sàn là nơi để dụng cụ sản xuất như cuốc, xẻng, máy tuốt lúa. Có nơi đồng bào còn
để nhốt gia súc, gia cầm (bây giờ nhiều nơi đã bỏ hẳn). Sân phơi thường làm bằng
gỗ ván ở trước ngôi nhà, vừa để trẻ con chơi, vừa làm nơi phơi thóc, lúa, ngô
khoai đồng thời cũng là chỗ để hóng mát hưởng
trăng...
Ngôi nhà sàn thể hiện rõ phong tục tập
quán, nền nếp trật tự trong gia đình người Tày, Nùng. Bố cục trong ngôi nhà sàn
thường được chia ra làm hai phần theo chiều ngang hay chiều dọc ngôi nhà (tính
từ cửa chính), nửa trên (phía gần bàn thờ) gần cửa chính là nơi diễn ra mọi sinh
hoạt của nam giới, đồng thời là nơi tiếp khách. Nửa dưới phía sau bàn thờ dành
cho phụ nữ. Có nơi bàn thờ đặt ở gần gian kề gian chính giữa, song cách bố trí
các thành viên nam, nữ trong gia đình cũng tương tự như
thế.
Trong nhà sàn thường có hai bếp, bếp chính
và bếp phụ. Bếp thường đặt ngay sau bàn thờ, bếp chính dùng để nấu nướng hằng
ngày, còn bếp phụ bên cạnh xây bằng gạch mộc, trát đất dùng để nấu rượu, nấu cám
lợn. Những gian cuối cùng để đựng đồ dùng gia đình: chạn bát, thúng mẹt, chum
nước ăn... Ở những nơi có điều kiện nước thuận lợi, dân bản thường dẫn mắc một
hệ thống máng nước đơn giản bằng cây vầu để đưa nước từ khe suối, đồi về tận sàn
nhà. Ðồng bào còn làm một thùng chứa nước bằng thân cây gỗ to, đục rỗng có thể
chứa được từ một đến hai gánh nước, nước này dùng để rửa chân tay khi khách lên
nhà chơi.
Tập quán của đồng bào Tày, Nùng thường bố
trí buồng ngủ như sau: buồng con dâu cả ở gian đầu rồi đến buồng con dâu thứ
hai, ba... Con gái nếu chưa lập gia đình sẽ ở buồng cuối, sau buồng các chị dâu.
Giữa các buồng được ngăn cách với nhau bằng ván hoặc phên nứa. Tập quán còn quy
định bố chồng, anh/ em chồng không được vào buồng con dâu, chị/ em dâu. Nếu có
khách con gái, con dâu thường tiếp khách ở trong buồng của mình hoặc bếp. Không
tiếp khách ở trên nhà và trước bàn thờ tổ
tiên.
Cho đến giờ nhiều nơi vẫn còn tập quán con
dâu, con gái không ngồi ăn cơm cùng với bố chồng, anh/ em chồng. Bữa cơm gia
đình phải được dọn hai mâm, âu cũng là nét văn hóa độc đáo riêng biệt của những
chủ nhân ngôi nhà sàn. Nếu đến Lạng Sơn, du khách sẽ ghé thăm một vài làng Tày
cổ ở Văn Lãng, Tràng Ðịnh theo tuyến đường 4A hoặc các làng Tày cổ ở Văn Quan,
Bình Gia, Bắc Sơn... có rất nhiều điều thú vị đang chờ bạn. Ngày nay, do những
loài cây quý hiếm không còn, nhiều nơi bà con cải tiến ngôi nhà sàn làm tầng
dưới thấp hơn hoặc làm nhà bằng các cột xi-măng, sắt thép, nhưng vẫn giữ dáng
dấp của ngôi nhà sàn truyền
thống.
2.Bếp lửa nhà sàn và các mối quan hệ trong
gia đình người
Tày.
Bếp lửa nhà sàn của người Tày, ngoài việc
là nơi sưởi ấm, nấu nướng, bếp núc của gia đình, bếp lửa còn là nơi phân chia vị
trí, vai vế của các thành viên trong gia đình. Từ bếp lửa nhà sàn tỏa ra các mối
quan hệ ứng xử tạo thành một hệ thống giao tiếp rất nhịp nhàng, chặt chẽ, thoải
mái và được truyền từ đời này qua đời khác, trở thành sinh hoạt văn hóa vô cùng
phong phú, sinh động trong kho tàng văn hóa tộc người của
mình.
Dưới một mái nhà sàn có thể chung sông ba
hoặc bốn thế hệ ông, bà, cha mẹ, con, cháu. Trong giao tiêp ứng xử của gia đình,
vai trò thứ bậc nổi lên rất rõ; thế hệ trứơc; thế hệ kế tiếp; thế hệ sau với các
duy danh và các mối quan hệ chằng chịt khác nữa. Về cấu trúc gia đình của người
Tày không khác gì những gia đình của người Kinh ở vùng đồng bằng hay thành phố.
Tuy nhiên, phép cư xử của người Tày có sự khác biệt chính là ở xung quanh bếp
lửa nhà sàn. Bếp lửa nhà sàn của người Tày được đặt ở phần giữa nhà hơi chếch
tránh thẳng vào bàn thờ tổ tiên. Theo phong tục của người Tày, bếp lửa là cái
mốc, là trung tâm của sự phân định các mối quan hệ trong gia đình. Từ bếp lửa
toả ra các mối quan hệ, ứng xử có sắp đặt sẵn theo khuôn mẫu mà các thành viên
trong gia đình phải tuân
thủ.
Bếp lửa nhà sàn hình chữ nhật, chiều rộng
khoảng 1 mét, chiều dài 1,5 mét, đủ để nhóm 2 hai bếp khi cần thiết. Xung quanh
bếp được phân định rõ ràng theo bốn phía: Nà Tấư (phia dưới), tính từ của đi vào
la vị trí của con dâu, con gái, cũng là nơi để ngồi nấu nướng, bếp núc. Nà Nưa
(phía trên) luôn luôn được chải chiếu hoa lịch sự là vị trí dành cho chủ gia
đình, đàn ông, con trai, khách quý là đàn ông. Hai bên gọi là Nà Khoang, gồm có
Nà khoang đâng (phía trong) dành cho bà, mẹ và khách là đàn bà; Nà Khoang Noóc
(phía ngoài) dành cho đàn ông ít tuổi, con rể. Con rể, đàn bà kể cả khách là đàn
bà muốn đi vào trong nhà đều phải đi qua Nà Tấư. Vào một gia đình người Tày, gặp
những lúc cả nhà ngồi quây quần bên bếp lửa, ta sẽ dễ dàng nhận ra từng thành
viên trong gia đình, bởi vị trí ngồi của
họ.
Bàn thờ tổ tiên cũng là ranh giới phân định
vị trí của các thành viên trong gia đình trong việc ăn, ở và sinh hoạt. Bàn thờ
tổ tiên được đặt đối diện với cửa ra vào, chia diện tích ngôi nhà làm hai hần
bằng nhau. Phần phía dưới bao gồm cả Nà Khoang, Na tâư là chỗ ngủ của phụ nữ và
bếp núc, phần phía trên, từ Nà Nưa trở lên có cửa sổ thoáng mát (nhà sàn chỉ làm
cửa sổ một phía) dành cho đàn ông và khách quý ngủ, nghỉ. Con gái ở trong nhà
có thế ngủ chỗ nào cũng được, nhưng con trai, đàn ông trong nhà không bao giờ
ngủ ở phía dưới bàn thàn, ngược lại bà, me, các con dâu không ngủ ở phía trên
bàn thờ. Đàn bà ở cữ không được ngồi bếp lửa trong vòng 40 ngày, không được quét
nhà trước bàn thờ tổ tiên. Sự phân định và xếp đặt đã đưa nếp sống và hành vi
ứng xử của các thành viên vào nề nếp, hình thành đạo đức tốt đẹp của trong gia
đình, tự mỗi thành viên trong gia đình phải thích ứng với nề nếp sinh hoạt đó.
Thế hệ trước truyền cho thế hệ sau rất khuôn phép,cũng từ những khuôn phép đó
tạo thành hệ đạo đức chung của cả cộng đồng, rất ít có những hành vi vô đạo đức,
hoặc nếu có, thì những nề nếp, khuôn phép đó làm cho nó tự triệt
tiêu.
Cũng giông như những gia đình của người
Việt, người đàn ông trong gia đình người Tày chiếm vị trí quan trọng, là trụ cột
trong gia đình, quyết định các công việc trọng đại như tang ma, hiếu hỷ, giỗ
tết, gả cưới và các công việc đối nội, đối ngoại trong thân tộc họ hàng cũng
hàng xóm láng giềng khác, và là người được thừ kế tài sản. Người con dâu trưởng
chịu trách nhiệm mọi công việc như chi tiêu, ăn uông và cách sắp đặt, điều phối
nguồn nhân lực trong lao động sản xuất (Lùa ké, mé rườn). Những người đàn bà
trong gia đình, đặc biệt là con dâu, không kể trưởng hay thứ phải là người có
trách nhiệm giữ cho bếp lửa cũng như ngọn lửa hạnh phúc của gia đình luôn cháy
rực và ấm
áp.
Như vậy, quan hệ ứng xử trong gia đình
người Tày rất mạch lạc, không dẫm đạp lên nhau, ít phủ quyết lẫn nhau cộng với
những phong tục tập quán tốt đẹp đã tạo nên những nét đẹp tiêu biểu của truyền
thống văn hoá của tộc
người.
3. Bếp lửa nhà sàn và hệ thống nghi thức
trong sinh hoạt lễ tết, tang ma, cưới
xin.
Người Tày có rất nhiều tục lệ, trong đó sự
sùng bái thần linh và tổ tiên luôn ngự trị trong đầu óc con người, tạo nên những
mối giao cảm đặc biệt giữa con người với thần linh được thể hiện bằng một hệ
thống những nghi thức ứng xử với thần linh rất mạch lạc, trong đó bếp lửa là
trung tâm. Người Tày coi bếp lửa cũng là một vị thần, những gia đình có người
làm Mo, làm Then đều pahỉ lập bàn thờ cúng thần lửa (thần bếp). Bếp lửa mang đến
sự ấm áp, hạnh phúc, sự làm ăn may mắn, phát đạt, nên bếp lửa không bào giờ tắt.
Việc đun bếp cũng có những quy tắc nhất định như: đun củi không được cho ngọn
vào trước, sợ cây trồng sẽ không mọc được, đàn bà sẽ đẻ ngược; nhà có tang không
được đun củi lấy từ những cây mà họ cho rằng có thần linh trú ngụ như cây Si,
cây Móc; không được đun rơm, rạ sợ đốt mất hồn lúa….Nếu người Kinh cho rằng ngày
23 tháng Chạp là ngày Ông Táo về chầu Trời, thì người Tày lại lấy ngày Tết
Nguyên đán là ngày ông Táo về chầu Trời. Ngày 30 tết, sau khi cúng lễ tất niên
song, bếp lửa được nghỉ đến 3 giờ sáng ngày mùng Một , không ai được đun nấu gì
trong thời gian đó, để vua bếp lên Thiên đình báo cáo công việc của gia đình.
Người ta cho một cái kiềng ba chân đặt ngược ở dưới bàn thờ cúng Thổ Công (người
Tày cúng Thổ Công ở góc nhà). Sáng mùng Một tết gia đình phải làm lễ khai bếp,
người đàn ông chủ gia đình (ông bố hoặc con trai trưởng) duy nhất một lần trong
năm dậy sớm đi lấy nước thiêng ở đầu nguồn hoặc giếng thần về nhóm bếp, đun nước
lá thơm cúng tổ tiên và cho cả gia đình rửa mặt, chúc cho cả gia đình một năm
mới mạnh khoẻ, bình an. Còn lại quanh năm người con dâu hoặc con gái lớn có
trách nhiệm dậy sớm hơn mọi người, nhóm bếp đun nước ấm để cả nhà rửa mặt, đồng
thời giữ cho bếp đỏ lửa đến khi kết thúc một ngày làm việc.. Người con dâu khi
về nhà chồng, việc đầu tiên là đi qua bếp lửa chất một que củi vào bếp mới được
đi vào buồng. Con gái lớn lên, khi đi lấy chồng hải vái lạy tổ tiên, lạy Nà táng
( cửa sổ) và lạy bếp lửa mới được bước ra khỏi cửa. Tục lệ này rèn luyện, giáo
dục cho người phụ nữ Tày phẩm chất chăm chỉ, chu đáo, đảm đang. Mặt khác, cũng
thể hiện sự phân công rõ ràng trong gia đình và khẳng định vai trò quan trọng
của người phụ nữ trong việc giữ gìn, chăm lo bếp lửa luôn được cháy sáng, cũng
như việc chăm lo cho hạnh phúc gia đình luôn được thắm
đượm.
Hệ thống giao tiếp ứng xử của người Tày bao
gồm các khuôn mẫu ứng xử trong gia đình, họ hàng thân tộc và lễ hội… tạo thành
một cơ cấu tổ chức quan hệ, giao tiếp nhịp nhàng, hợp lý. Trong phạm vi giao
tiếp của cá nhân, gia đình xung quanh bếp lửa nhà sàn đã vẽ nên bức tranh phong
phú, đặc sắc về đời sống văn hóa của tộc người Tày. Tiếc rằng ngày nay, do ảnh
hưởng của công cuộc đổi mới về văn hóa trong việc xây dựng làng văn hóa, xây
dựng nếp sống văn minh gia đình văn hóa và đặc biệt là phong trào xây dựng nông
thôn mới đang được triển khai, do nhận thức hạn chế của nhiều cán bộ công chức
cấp cơ sở trong việc vận động các phong trào này làm cho rất nhiều ngôi nhà sàn
cổ đã bị biến dạng ở nhiều địa phương. Bếp lửa đã được tách đưa ra khỏi nhà,
thay vào đó là tủ lạnh, bếp ga, ghế sa lông hiện đại ….Điều đó đã làm thay đổi
và mất dần đi những nét đẹp văn hóa truyền thống của đồng bào
Tày.
Dương Thị Lâm