
Đám cưới của người Dao đỏ Thôm Táu.
Nắng chan hòa tỏa xuống những mái nhà sàn. 
Xa xa, thấp thoáng bóng dáng sơn nữ xinh tươi trong váy áo truyền thống khiến 
khung cảnh ngày mới của bản người Dao thôn Thôm Táu, xã Phù Lưu (Hàm Yên) hiện 
lên thật nên thơ, trữ tình.
Giai điệu bản Dao
Thôn Thôm Táu, xã Phù Lưu nằm nép mình dưới 
chân núi Cham Chu, cách chân thác Mạ Héc chừng vài trăm mét. Bao năm qua, hơn 40 
nóc nhà người Dao đỏ quần tụ tạo nên những giá trị văn hóa độc đáo. Ông Phượng 
Quỳ Phẫu, một trong những người già nhất bản bảo, từ xưa đến nay phong tục tập 
quán truyền thống của người Dao đỏ vẫn luôn được dân bản giữ gìn ngay từ nếp 
sống sinh hoạt hàng ngày đến nghi thức cúng bái, cưới hỏi, ma chay… Bản có gần 
200 nhân khẩu, từ trước đến nay những người biết hát Páo dung, thổi kèn Pí lè 
luôn được trọng dụng. Ngày ngày bên sườn núi, giai điệu ấy lại được cất lên, lúc 
thì nhẹ nhàng như tiếng suối bản Táu, lúc thì lảnh lót, rộn ràng tựa tiếng thác 
Mạ Héc chảy ngày 
đêm.
Ông Đặng Chạn Trìu năm nay ngoài 50 tuổi 
được cả bản “phong” là nghệ nhân bởi khả năng thổi kèn Pí lè khá điêu luyện. Gặp 
chúng tôi, ông  cầm chiếc kèn Pí lè trên tay, khẽ thổi một giai điệu giao duyên 
da diết. Thanh âm núi rừng hòa điệu nhịp nhàng cùng những ngón tay lướt nhẹ trên 
thân kèn khiến người nghe như được đắm chìm trong không gian của đại ngàn. Tiếng 
kèn của ông có mặt tại tất cả đám cưới, đám chay, lễ cầu mùa, lễ cấp sắc của 
làng. Tại Liên hoan Câu lạc bộ đàn hát dân ca và gia đình văn nghệ toàn tỉnh, 
Ngày hội Văn hóa dân tộc tại Đồng Mô, Sơn Tây (Hà Nội) giai điệu Pí lè cũng được 
ông ngân vang làm say đắm bao du khách gần xa. Có thâm niên gần 40 năm, ông Trìu 
thổi kèn thành thục 72 giai điệu, mỗi bản nhạc được cất lên tùy theo hoàn cảnh: 
lúc rộn ràng tha thiết trong đám cưới, lúc ai oán, nỉ non trong đám tang, lúc 
cao vút tự hào trong ngày trai làng làm lễ cấp sắc... Đối với người Dao nơi đây, 
tiếng kèn tựa linh hồn, tựa tiếng nói của những vị thần trên 
cao. 
Ngọn nguồn sức sống ấy được hòa nhịp cùng 
làn điệu Páo dung mà trai gái Thôm Táu ngày đêm vẫn say sưa hát: “Em bảo suốt 
đời em vẫn đợi/Yêu anh hơn cả rừng yêu cây…”. Niềm vui của các già làng đó là 
nhiều người trẻ trong bản biết hát Páo dung. Mỗi dịp lễ hội, bản làng lại rộn 
ràng những khúc ca tình yêu. Những lời đối đáp ý nhị ấy có sức quyễn rũ lạ kỳ 
khiến bao người không ai muốn về dù tiếng gà gáy báo canh ba, canh tư. Tiếng hát 
như vượt thời gian, vượt cả không gian: “Em bay lên trời anh cũng đuổi/Em trốn 
vào sao anh cũng tìm...”. Từ năm 15 tuổi, chị Bàn Thị Thủy đã thuộc làu những 
câu hát, khiến nhiều người nể phục. Chị bảo, ở đây ai mà không biết hát thì xấu 
hổ với bạn bè 
lắm.

Ông Đặng Chạn Trìu và chiếc kèn Pí lè.
Các chàng trai, cô gái không ai bảo ai, đều 
tìm cho mình một người dạy hát. Lên nương, xuống chợ học được câu hát nào hay và 
giữ nó như một tài sản riêng của mình. Đến khi nam nữ tụ tập hát giao duyên, lời 
ca đó được cất lên khiến mọi người vỗ tay tán thưởng, khen ngợi là hạnh phúc 
lắm. Còn anh Triệu Văn Sịu được biết đến với giọng hát Páo dung trầm ấm, khỏe 
khoắn, anh bảo: “Đi xem người ta hát, múa, nhiều lần vậy là tự khắc vào đầu mình 
thôi. Đến năm 13 tuổi, tôi đã theo các chàng trai sang tận làng bên hát tìm bạn 
rồi đấy...”. Chị Muông đưa ánh mắt sắc lẹm nhìn chồng rồi tủm tỉm cười khi nhớ 
lại chuyện hai người gặp nhau trong đêm Páo dung ngày ấy. Thời gian như thoi 
đưa, cả hai đã bước sang tuổi tứ tuần nhưng trong những dịp lễ làng, họ vẫn tình 
tứ trong lời ca ý nhị, rất riêng của người Dao nơi đây: “Đôi mắt em trong ngần 
như nước Mạ Héc/Nụ cười khiến anh lạc vào chốn rừng sâu/Tiếng hát du dương vọng 
vào vách núi/ Rẽ lối đường rừng giúp anh vượt qua đỉnh Cham 
Chu”.
Chuyện những người vượt 
khó
Đến Thôm Táu chúng tôi không chỉ được hòa 
mình vào làn điệu Páo dung và âm thanh tha thiết của kèn Pí lè mà còn được nghe 
kể về những con người vượt khó vươn lên làm giàu ở mảnh đất 
này.
Anh Đặng Văn Sỉnh là người duy nhất có cơ 
thể lành lặn như bao người bình thường khác trong một gia đình có bố mẹ và anh 
chị đều bị câm điếc bẩm sinh, ngờ ngệch, không có khả năng lao động. Tuổi thơ 
của anh gắn bó với căn nhà lá tồi tàn, qua mỗi mùa mưa gió lại càng xơ xác thêm. 
Lên 10 tuổi, Sỉnh trở thành lao động chính trong gia đình. Ngày ngày mò cua bắt 
ốc, lên rừng đốn củi, làm thuê cuốc mướn để kiếm tiền đong gạo. Năm 15 tuổi, bố 
anh ra đi trong một cơn bạo bệnh để lại người mẹ già và hai anh chị tàn tật. Bao 
gánh nặng cuộc đời cứ đè chặt lên vai, Sình như già trước tuổi. Ước mơ được bù 
đắp người thân những thiệt thòi, thiếu thốn khiến Sỉnh có thêm động lực sống và 
vươn lên. Sống trên mảnh đất của những vựa cam ngon nổi tiếng ý tưởng làm giàu 
từ cây cam cũng là điều dễ 
hiểu.

Phụ nữ dân tộc Dao đỏ.
Sau thời gian tìm hiểu học hỏi kiến thức 
của những hộ trồng cam có kinh nghiệm, anh vay ngân hàng 10 triệu đồng để làm 
vốn và bắt tay vào làm kinh tế. Ngày qua ngày, một mình anh vật lộn với những 
khu đồi: Dọn thực bì, thu gom lau sậy đốt thành tro tãi cho đất đai màu mỡ. Anh 
cứ chăm chỉ như một con ong hút mật: Khai hoang gần 3 ha đất, hạ thổ hàng trăm 
gốc cam, đợi ngày ra hoa kết trái... Nhờ áp dụng đúng khoa học kỹ thuật, đất 
không phụ công người giờ đây anh đã có vườn cam sai quả với mức thu nhập hơn 200 
triệu đồng/năm. Gia đình Sỉnh trở thành hộ khá giả trong thôn, căn nhà bằng gỗ 3 
gian được đánh véc ni sáng bóng là món quà mà anh dành tặng cho mẹ và anh chị 
của mình.
Bắt đầu cuộc sống từ hai bàn tay trắng, 
trải qua biết bao gian nan trên con đường lập nghiệp, vợ chồng anh chị Phường 
Văn Nải - Đặng Thị Khế trở thành tấm gương về nghị lực, ý chí vươn lên của người 
dân bản Dao. Ra ở riêng từ năm 1990, cuộc sống vô cùng chật vật, cơm không đủ 
ăn, gia đình anh phải sống trong một túp lều nhỏ. Không tiền, đất canh tác lại 
ít, vay được ít vốn từ bạn bè, anh đầu tư vào trồng 2 ha cam. Anh nhớ lại, 300 
gốc cam được hạ thổ mong chờ ngày thu hái, có tiền đong gạo nuôi vợ nuôi con. 
Thế nhưng hàng trăm gốc cam vừa mới vươn cành nảy lộc đã bị sâu bệnh phá hoại, 
còi cọc.
Ba năm trời, mặc cho người trồng chăm bón 
cam nhưng lời lãi chẳng được bao nhiêu, không đủ tiền trả nợ, lãi mẹ đẻ lãi con, 
thế là nhà vốn đã nghèo lại càng nghèo thêm. Vừa lo miếng cơm manh áo vừa lo trả 
tiền lãi, vợ chồng anh chăm chỉ đi làm thuê mong kiếm thêm thu nhập,  lúc thì 
nhận chăm sóc cam lúc thì hái cam, gánh cam… vừa làm vừa tích góp kinh nghiệm. 
Phải đến hai năm sau, anh mới có tiền mua thêm cây giống, đầu tư phân bón trồng 
cam. Thấm thoát, cả khu đồi đã được điểm tô bởi màu trắng của hoa cam, những quả 
nhỏ xíu bằng đầu ngón tay dần xuất hiện. Thế nhưng đôi khi ông trời cũng muốn 
thử lòng kiên trì của con người, một trận mưa đá đổ xuống đúng lúc cây đang độ 
quả, thế là thành công 
cốc...
Anh buồn bã khi nhìn đồi cam xơ xác như bị 
quái vật quật ngã, hình ảnh về đồi cam sai trĩu quả nhạt nhòa trước mắt. Khó 
khăn chồng chất khó khăn nhưng hoàn cảnh không bao giờ khuất phục những người có 
lòng quyết tâm. Năm 2009, cơ hội đến với anh khi có người muốn bán một vườn rộng 
2 ha và đã có 400 gốc cam trồng sẵn, anh quyết định mua mặc cho sự ngăn cản của 
nhiều người. Thuyết phục bố mẹ, thuyết phục bạn bè, chạy vạy vay mượn, gom góp 
mãi cũng đủ tiền mua mảnh vườn. May mắn thực sự đến, cuối năm thu hoạch, cam 
được giá gấp đôi, 6.000 đồng/kg. Vụ đầu tiên thắng lợi thu hoạch được 6 tấn, 
tính ra là được gần 40 triệu đồng. Có chút vốn giắt lưng, anh đầu tư trồng thêm 
800 gốc cam, thấm thoắt khu đồi rộng 3 ha đã được phủ lên màu xanh của cây cam. 
Giờ đây, cuộc sống gia đình anh khá giả hơn trước, mức thu nhập 300 triệu 
đồng/năm từ đồi cam. Mọi tiện nghi từ xe máy, ti vi, tủ lạnh, máy giặt đều được 
vợ chồng anh mua sắm đầy 
đủ.
Thôm Táu hôm nay đang vươn mình, những đồi 
cam tốt tươi như phủ xanh khắp bản làng mang lại ấm no, hạnh phúc cho người dân. 
Năm 2012, bản còn 11 hộ nghèo, nay chỉ còn 8 hộ; thôn hiện có hơn 10 hộ mức thu 
nhập 100 triệu đồng/năm trở lên. Sau những cơn mưa xuân lất phất, cây rừng Cham 
Chu vươn những chồi non xanh biêng biếc. Chia tay Thôm Táu, từ xa xa vẫn còn 
vang vọng tiếng thác Mạ Héc. Âm thanh ngày đêm của rừng già hòa nhịp cùng tiếng 
hát Páo dung tạo nên một bản giao hưởng cuộc sống mang về ấm no, bình 
yên.
Giang Lam

Đám cưới của người Dao đỏ Thôm Táu.
Nắng chan hòa tỏa xuống những mái nhà sàn. 
Xa xa, thấp thoáng bóng dáng sơn nữ xinh tươi trong váy áo truyền thống khiến 
khung cảnh ngày mới của bản người Dao thôn Thôm Táu, xã Phù Lưu (Hàm Yên) hiện 
lên thật nên thơ, trữ 
tình.
Giai điệu bản Dao
Thôn Thôm Táu, xã Phù Lưu nằm nép mình dưới 
chân núi Cham Chu, cách chân thác Mạ Héc chừng vài trăm mét. Bao năm qua, hơn 40 
nóc nhà người Dao đỏ quần tụ tạo nên những giá trị văn hóa độc đáo. Ông Phượng 
Quỳ Phẫu, một trong những người già nhất bản bảo, từ xưa đến nay phong tục tập 
quán truyền thống của người Dao đỏ vẫn luôn được dân bản giữ gìn ngay từ nếp 
sống sinh hoạt hàng ngày đến nghi thức cúng bái, cưới hỏi, ma chay… Bản có gần 
200 nhân khẩu, từ trước đến nay những người biết hát Páo dung, thổi kèn Pí lè 
luôn được trọng dụng. Ngày ngày bên sườn núi, giai điệu ấy lại được cất lên, lúc 
thì nhẹ nhàng như tiếng suối bản Táu, lúc thì lảnh lót, rộn ràng tựa tiếng thác 
Mạ Héc chảy ngày 
đêm.
Ông Đặng Chạn Trìu năm nay ngoài 50 tuổi 
được cả bản “phong” là nghệ nhân bởi khả năng thổi kèn Pí lè khá điêu luyện. Gặp 
chúng tôi, ông  cầm chiếc kèn Pí lè trên tay, khẽ thổi một giai điệu giao duyên 
da diết. Thanh âm núi rừng hòa điệu nhịp nhàng cùng những ngón tay lướt nhẹ trên 
thân kèn khiến người nghe như được đắm chìm trong không gian của đại ngàn. Tiếng 
kèn của ông có mặt tại tất cả đám cưới, đám chay, lễ cầu mùa, lễ cấp sắc của 
làng. Tại Liên hoan Câu lạc bộ đàn hát dân ca và gia đình văn nghệ toàn tỉnh, 
Ngày hội Văn hóa dân tộc tại Đồng Mô, Sơn Tây (Hà Nội) giai điệu Pí lè cũng được 
ông ngân vang làm say đắm bao du khách gần xa. Có thâm niên gần 40 năm, ông Trìu 
thổi kèn thành thục 72 giai điệu, mỗi bản nhạc được cất lên tùy theo hoàn cảnh: 
lúc rộn ràng tha thiết trong đám cưới, lúc ai oán, nỉ non trong đám tang, lúc 
cao vút tự hào trong ngày trai làng làm lễ cấp sắc... Đối với người Dao nơi đây, 
tiếng kèn tựa linh hồn, tựa tiếng nói của những vị thần trên 
cao. 
Ngọn nguồn sức sống ấy được hòa nhịp cùng 
làn điệu Páo dung mà trai gái Thôm Táu ngày đêm vẫn say sưa hát: “Em bảo suốt 
đời em vẫn đợi/Yêu anh hơn cả rừng yêu cây…”. Niềm vui của các già làng đó là 
nhiều người trẻ trong bản biết hát Páo dung. Mỗi dịp lễ hội, bản làng lại rộn 
ràng những khúc ca tình yêu. Những lời đối đáp ý nhị ấy có sức quyễn rũ lạ kỳ 
khiến bao người không ai muốn về dù tiếng gà gáy báo canh ba, canh tư. Tiếng hát 
như vượt thời gian, vượt cả không gian: “Em bay lên trời anh cũng đuổi/Em trốn 
vào sao anh cũng tìm...”. Từ năm 15 tuổi, chị Bàn Thị Thủy đã thuộc làu những 
câu hát, khiến nhiều người nể phục. Chị bảo, ở đây ai mà không biết hát thì xấu 
hổ với bạn bè 
lắm.

Ông Đặng Chạn Trìu và chiếc kèn Pí lè.
Các chàng trai, cô gái không ai bảo ai, đều 
tìm cho mình một người dạy hát. Lên nương, xuống chợ học được câu hát nào hay và 
giữ nó như một tài sản riêng của mình. Đến khi nam nữ tụ tập hát giao duyên, lời 
ca đó được cất lên khiến mọi người vỗ tay tán thưởng, khen ngợi là hạnh phúc 
lắm. Còn anh Triệu Văn Sịu được biết đến với giọng hát Páo dung trầm ấm, khỏe 
khoắn, anh bảo: “Đi xem người ta hát, múa, nhiều lần vậy là tự khắc vào đầu mình 
thôi. Đến năm 13 tuổi, tôi đã theo các chàng trai sang tận làng bên hát tìm bạn 
rồi đấy...”. Chị Muông đưa ánh mắt sắc lẹm nhìn chồng rồi tủm tỉm cười khi nhớ 
lại chuyện hai người gặp nhau trong đêm Páo dung ngày ấy. Thời gian như thoi 
đưa, cả hai đã bước sang tuổi tứ tuần nhưng trong những dịp lễ làng, họ vẫn tình 
tứ trong lời ca ý nhị, rất riêng của người Dao nơi đây: “Đôi mắt em trong ngần 
như nước Mạ Héc/Nụ cười khiến anh lạc vào chốn rừng sâu/Tiếng hát du dương vọng 
vào vách núi/ Rẽ lối đường rừng giúp anh vượt qua đỉnh Cham 
Chu”.
Chuyện những người vượt 
khó
Đến Thôm Táu chúng tôi không chỉ được hòa 
mình vào làn điệu Páo dung và âm thanh tha thiết của kèn Pí lè mà còn được nghe 
kể về những con người vượt khó vươn lên làm giàu ở mảnh đất 
này.
Anh Đặng Văn Sỉnh là người duy nhất có cơ 
thể lành lặn như bao người bình thường khác trong một gia đình có bố mẹ và anh 
chị đều bị câm điếc bẩm sinh, ngờ ngệch, không có khả năng lao động. Tuổi thơ 
của anh gắn bó với căn nhà lá tồi tàn, qua mỗi mùa mưa gió lại càng xơ xác thêm. 
Lên 10 tuổi, Sỉnh trở thành lao động chính trong gia đình. Ngày ngày mò cua bắt 
ốc, lên rừng đốn củi, làm thuê cuốc mướn để kiếm tiền đong gạo. Năm 15 tuổi, bố 
anh ra đi trong một cơn bạo bệnh để lại người mẹ già và hai anh chị tàn tật. Bao 
gánh nặng cuộc đời cứ đè chặt lên vai, Sình như già trước tuổi. Ước mơ được bù 
đắp người thân những thiệt thòi, thiếu thốn khiến Sỉnh có thêm động lực sống và 
vươn lên. Sống trên mảnh đất của những vựa cam ngon nổi tiếng ý tưởng làm giàu 
từ cây cam cũng là điều dễ 
hiểu.

Phụ nữ dân tộc Dao đỏ.
Sau thời gian tìm hiểu học hỏi kiến thức 
của những hộ trồng cam có kinh nghiệm, anh vay ngân hàng 10 triệu đồng để làm 
vốn và bắt tay vào làm kinh tế. Ngày qua ngày, một mình anh vật lộn với những 
khu đồi: Dọn thực bì, thu gom lau sậy đốt thành tro tãi cho đất đai màu mỡ. Anh 
cứ chăm chỉ như một con ong hút mật: Khai hoang gần 3 ha đất, hạ thổ hàng trăm 
gốc cam, đợi ngày ra hoa kết trái... Nhờ áp dụng đúng khoa học kỹ thuật, đất 
không phụ công người giờ đây anh đã có vườn cam sai quả với mức thu nhập hơn 200 
triệu đồng/năm. Gia đình Sỉnh trở thành hộ khá giả trong thôn, căn nhà bằng gỗ 3 
gian được đánh véc ni sáng bóng là món quà mà anh dành tặng cho mẹ và anh chị 
của mình.
Bắt đầu cuộc sống từ hai bàn tay trắng, 
trải qua biết bao gian nan trên con đường lập nghiệp, vợ chồng anh chị Phường 
Văn Nải - Đặng Thị Khế trở thành tấm gương về nghị lực, ý chí vươn lên của người 
dân bản Dao. Ra ở riêng từ năm 1990, cuộc sống vô cùng chật vật, cơm không đủ 
ăn, gia đình anh phải sống trong một túp lều nhỏ. Không tiền, đất canh tác lại 
ít, vay được ít vốn từ bạn bè, anh đầu tư vào trồng 2 ha cam. Anh nhớ lại, 300 
gốc cam được hạ thổ mong chờ ngày thu hái, có tiền đong gạo nuôi vợ nuôi con. 
Thế nhưng hàng trăm gốc cam vừa mới vươn cành nảy lộc đã bị sâu bệnh phá hoại, 
còi cọc.
Ba năm trời, mặc cho người trồng chăm bón 
cam nhưng lời lãi chẳng được bao nhiêu, không đủ tiền trả nợ, lãi mẹ đẻ lãi con, 
thế là nhà vốn đã nghèo lại càng nghèo thêm. Vừa lo miếng cơm manh áo vừa lo trả 
tiền lãi, vợ chồng anh chăm chỉ đi làm thuê mong kiếm thêm thu nhập,  lúc thì 
nhận chăm sóc cam lúc thì hái cam, gánh cam… vừa làm vừa tích góp kinh nghiệm. 
Phải đến hai năm sau, anh mới có tiền mua thêm cây giống, đầu tư phân bón trồng 
cam. Thấm thoát, cả khu đồi đã được điểm tô bởi màu trắng của hoa cam, những quả 
nhỏ xíu bằng đầu ngón tay dần xuất hiện. Thế nhưng đôi khi ông trời cũng muốn 
thử lòng kiên trì của con người, một trận mưa đá đổ xuống đúng lúc cây đang độ 
quả, thế là thành công 
cốc...
Anh buồn bã khi nhìn đồi cam xơ xác như bị 
quái vật quật ngã, hình ảnh về đồi cam sai trĩu quả nhạt nhòa trước mắt. Khó 
khăn chồng chất khó khăn nhưng hoàn cảnh không bao giờ khuất phục những người có 
lòng quyết tâm. Năm 2009, cơ hội đến với anh khi có người muốn bán một vườn rộng 
2 ha và đã có 400 gốc cam trồng sẵn, anh quyết định mua mặc cho sự ngăn cản của 
nhiều người. Thuyết phục bố mẹ, thuyết phục bạn bè, chạy vạy vay mượn, gom góp 
mãi cũng đủ tiền mua mảnh vườn. May mắn thực sự đến, cuối năm thu hoạch, cam 
được giá gấp đôi, 6.000 đồng/kg. Vụ đầu tiên thắng lợi thu hoạch được 6 tấn, 
tính ra là được gần 40 triệu đồng. Có chút vốn giắt lưng, anh đầu tư trồng thêm 
800 gốc cam, thấm thoắt khu đồi rộng 3 ha đã được phủ lên màu xanh của cây cam. 
Giờ đây, cuộc sống gia đình anh khá giả hơn trước, mức thu nhập 300 triệu 
đồng/năm từ đồi cam. Mọi tiện nghi từ xe máy, ti vi, tủ lạnh, máy giặt đều được 
vợ chồng anh mua sắm đầy 
đủ.
Thôm Táu hôm nay đang vươn mình, những đồi 
cam tốt tươi như phủ xanh khắp bản làng mang lại ấm no, hạnh phúc cho người dân. 
Năm 2012, bản còn 11 hộ nghèo, nay chỉ còn 8 hộ; thôn hiện có hơn 10 hộ mức thu 
nhập 100 triệu đồng/năm trở lên. Sau những cơn mưa xuân lất phất, cây rừng Cham 
Chu vươn những chồi non xanh biêng biếc. Chia tay Thôm Táu, từ xa xa vẫn còn 
vang vọng tiếng thác Mạ Héc. Âm thanh ngày đêm của rừng già hòa nhịp cùng tiếng 
hát Páo dung tạo nên một bản giao hưởng cuộc sống mang về ấm no, bình 
yên.
Giang Lam





