
Thầy pựt làm lễ giải hạn đầu 
năm.
Đầu năm mới, nhiều gia đình người dân tộc 
Tày, Nùng ở Cao Bằng thường mời then, giàng (pựt), tào… (gọi chung là thầy) về 
nhà hoặc đến nhà thầy làm lễ giải hạn để giảm bớt các rủi ro, vận hạn, bệnh tật, 
cầu mong an lành cho cả 
năm.
Đây là một phong tục, hình thức sinh hoạt 
văn hóa tín ngưỡng dân gian đã tồn tại lâu đời, được truyền từ thế hệ này sang 
thế hệ khác, đến nay, vẫn được bảo tồn, lưu giữ.
Để tìm hiểu về lễ giải hạn đầu năm của 
người Tày, Nùng tại Cao Bằng, chúng tôi đã trực tiếp đến một số gia đình làm lễ 
giải hạn trong những ngày đầu năm Bính Thân để “mục sở thị” các nghi lễ giải 
hạn. Bà Bế Thị Nơm, 72 tuổi, dân tộc Nùng tại xã Độc Lập (Quảng Uyên) vừa mời 
thầy về làm lễ giải hạn đầu năm cho biết: Hằng năm, sau Tết Nguyên đán, gia đình 
tôi đều mời thầy về làm lễ cúng giải hạn đầu năm nhằm xua đuổi cái xấu, cầu mong 
năm mới an lành, mọi việc hanh thông, thuận lợi. Muốn làm lễ giải hạn việc đầu 
tiên là phải tìm gặp thầy then, thầy pựt để xem ngày lành, sau đó tiến hành 
chuẩn bị lễ vật và đi đón thầy về nhà để làm lễ. Các đồ lễ để cúng tùy theo mỗi 
thầy có những yêu cầu riêng và tùy thuộc vào điều kiện mỗi gia đình khi sắm lễ. 
Nhưng các đồ lễ cơ bản nhất để cúng lễ giải hạn gồm có mâm lễ, để thầy làm lễ để 
dưới chân bàn thờ gọi là “bâm lẹ” (mâm lễ). Mâm lễ được đặt ở sảnh giữa trong 
nhà, dưới bàn thờ tổ tiên là nơi diễn ra các hoạt động cúng bái của thầy với 3 
hoặc 5 bát gạo sống. Bát gạo ở giữa đặt thêm trứng gà, cắm hương và nhiều hình 
nhân được cắt bằng giấy, cành hoa, cây... Còn mâm khác để hành lễ, gồm: Thủ lợn, 
đuôi lợn, chân giò luộc; 1 con gà, 1 con vịt  luộc chín có đủ lòng, mề, tim, gan 
và tiết; xôi (khẩu nua); 1 miếng thịt lợn luộc; hoa quả, bánh kẹo. Ngoài ra, cần 
1 con gà sống, 1 con vịt sống và 1 cây chuối, 1 chiếc thuyền hoa (pè) làm bằng 
cọng 
chuối...
Thầy được mời về làm lễ giải hạn là người 
có khả năng thần giao cách cảm, có thể giao tiếp với thế giới tâm linh, những 
người đã khuất hoặc dự báo được những vận hạn của người khác thông qua nhãn quan 
của mình. Họ được các gia đình mời để làm lễ giải hạn, mừng nhà mới, cầu tự, cầu 
phúc lộc, thọ… Trong lễ cúng giải hạn, nếu giải hạn là thầy then thì vật dụng 
thầy dùng là cây đàn tính, còn với thầy pựt thì có chiếc quạt và xóc nhạc (nhiều 
quả nhỏ ghép nối lại với nhau bằng các vòng tròn sắt hoặc đồng). Màu sắc chủ đạo 
trong trang phục các thầy mặc khi làm lễ là đỏ, vàng, chàm, trắng. Mỗi một màu 
tương ứng với một vị thần linh. Khi những làn điệu then cổ cất lên với tiếng đàn 
tính hoặc tiếng xóc nhạc hòa với lễ phục nhiều màu sắc của thầy tạo nên không 
gian nghi lễ huyền ảo mang đậm dấu ấn tâm linh, là tổng hòa của thiên - địa - 
nhân.
Theo giàng Bế Sơn Chung - một nghệ nhân 
then sinh ra trong gia đình có 8 đời làm pựt (giàng), một lễ giải hạn tùy thuộc 
vào các cúng lễ của từng thầy và ý nguyện của gia chủ mà có các bước tiến hành 
nghi thức lễ khác nhau. Nhưng trong một lễ giải hạn, các nghi lễ bước chung nhất 
thường gồm các phần: Nhập môn, thỉnh tướng (bước vào với tổ tiên để báo lên tổ 
tiên và mời tổ tiên về để con cháu trong gia đình được dâng các lễ vật); bốc 
mệnh (dự đoán bản mệnh của người để biết được khái quát về công danh tài lộc, sự 
thọ yểu, thăng trầm, những bệnh tật hay tai họa trong cuộc đời); trừ tà (diệt 
trừ tà ma, quét sạch những vận xui, rủi ro...); hành yên, lập phú (cầu bình an, 
tài lộc). Trong đó có nhiều đoạn kể, du ký, vào chợ trời, lên thiên đình. Có lúc 
có những động thái sa man (ma nhập vào người) nói chuyện với ma, phán quyết với 
người, kiểu lên đồng một lúc sau trở lại bình thường. Trong lễ cúng giải hạn 
ngoài những lời then, điệu hát cổ thì thầy sẽ dùng hai thẻ gỗ để gieo quẻ, để 
xin lộc tới cho gia đình. Nếu như gia chủ thành tâm và âm phần trong nhà tốt thì 
việc xin quẻ sẽ diễn ra thuận lợi, lễ cúng sẽ diễn ra suôn sẻ và kết thúc tốt 
đẹp.

Đồ lễ để cúng trong lễ giải 
hạn.
Lễ giải hạn nói chung cũng như lẩu then, lẩu pựt đều là 
các hình thức diễn xướng cổ của người dân tộc Tày, Nùng, là 
hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian lâu đời. Với lòng tin 
thuần phác, người dân tộc Tày, Nùng làm lễ giải hạn nhằm cầu mong 
một cuộc sống an lành cho những người đang sống, những người đã khuất và 
cả thế giới tâm linh đều yên ổn. Họ cần một chỗ dựa tinh thần song không cuồng 
tín, khi gặp tai họa, ốm đau thì theo quan niệm chung của mọi người “Vô phúc vái tứ phương, ma cũng cầu, thuốc cũng chữa”. Tuy nhiên, 
hiện nay do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế thị trường, cũng như nhận thức về giá 
trị văn hóa truyền thống ở một bộ phận người dân có những thay đổi nhất định, 
cùng sự giao thoa giữa các yếu tố văn hóa mới đã tác động đến loại hình dân gian 
truyền thống này khiến lễ giải hạn đã không còn giữ nguyên ý nghĩa ban đầu của 
nó, như: Một số gia đình có điều kiện sẵn sàng bỏ ra hàng triệu đồng, thậm chí 
hàng chục triệu đồng để mời thầy về cúng lễ cho gia đình làm ăn phát đạt; một số 
gia đình không có điều kiện nhưng vì quá “tín” nên sẵn sàng bán cả tài sản trong 
nhà để làm lễ; lễ giải hạn bị lạm dụng (làm lễ giải hạn khi làm ăn buôn bán 
không thuận lợi, mất của, thi cử, lận đận tình duyên...) nên các nghi lễ trở nên 
rườm rà và tổ chức một cách bừa bãi... Ngoài ra, các thầy then, thầy pựt đang 
dần ít đi, dẫn tới nguy cơ mai một ngày càng cao. Vì vậy, việc bảo tồn và phát 
huy những giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có lễ giải hạn là việc làm hết 
sức cần thiết, cần sự quan tâm của các cấp, các ngành và của toàn xã hội để loại 
hình văn hóa tín ngưỡng dân gian mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc này giữ được 
nguyên giá trị ban 
đầu.
Khánh Hà

Thầy pựt làm lễ giải hạn đầu 
năm.
Đầu năm mới, nhiều gia đình người dân tộc 
Tày, Nùng ở Cao Bằng thường mời then, giàng (pựt), tào… (gọi chung là thầy) về 
nhà hoặc đến nhà thầy làm lễ giải hạn để giảm bớt các rủi ro, vận hạn, bệnh tật, 
cầu mong an lành cho cả 
năm.
Đây là một phong tục, hình thức sinh hoạt 
văn hóa tín ngưỡng dân gian đã tồn tại lâu đời, được truyền từ thế hệ này sang 
thế hệ khác, đến nay, vẫn được bảo tồn, lưu giữ.
Để tìm hiểu về lễ giải hạn đầu năm của 
người Tày, Nùng tại Cao Bằng, chúng tôi đã trực tiếp đến một số gia đình làm lễ 
giải hạn trong những ngày đầu năm Bính Thân để “mục sở thị” các nghi lễ giải 
hạn. Bà Bế Thị Nơm, 72 tuổi, dân tộc Nùng tại xã Độc Lập (Quảng Uyên) vừa mời 
thầy về làm lễ giải hạn đầu năm cho biết: Hằng năm, sau Tết Nguyên đán, gia đình 
tôi đều mời thầy về làm lễ cúng giải hạn đầu năm nhằm xua đuổi cái xấu, cầu mong 
năm mới an lành, mọi việc hanh thông, thuận lợi. Muốn làm lễ giải hạn việc đầu 
tiên là phải tìm gặp thầy then, thầy pựt để xem ngày lành, sau đó tiến hành 
chuẩn bị lễ vật và đi đón thầy về nhà để làm lễ. Các đồ lễ để cúng tùy theo mỗi 
thầy có những yêu cầu riêng và tùy thuộc vào điều kiện mỗi gia đình khi sắm lễ. 
Nhưng các đồ lễ cơ bản nhất để cúng lễ giải hạn gồm có mâm lễ, để thầy làm lễ để 
dưới chân bàn thờ gọi là “bâm lẹ” (mâm lễ). Mâm lễ được đặt ở sảnh giữa trong 
nhà, dưới bàn thờ tổ tiên là nơi diễn ra các hoạt động cúng bái của thầy với 3 
hoặc 5 bát gạo sống. Bát gạo ở giữa đặt thêm trứng gà, cắm hương và nhiều hình 
nhân được cắt bằng giấy, cành hoa, cây... Còn mâm khác để hành lễ, gồm: Thủ lợn, 
đuôi lợn, chân giò luộc; 1 con gà, 1 con vịt  luộc chín có đủ lòng, mề, tim, gan 
và tiết; xôi (khẩu nua); 1 miếng thịt lợn luộc; hoa quả, bánh kẹo. Ngoài ra, cần 
1 con gà sống, 1 con vịt sống và 1 cây chuối, 1 chiếc thuyền hoa (pè) làm bằng 
cọng 
chuối...
Thầy được mời về làm lễ giải hạn là người 
có khả năng thần giao cách cảm, có thể giao tiếp với thế giới tâm linh, những 
người đã khuất hoặc dự báo được những vận hạn của người khác thông qua nhãn quan 
của mình. Họ được các gia đình mời để làm lễ giải hạn, mừng nhà mới, cầu tự, cầu 
phúc lộc, thọ… Trong lễ cúng giải hạn, nếu giải hạn là thầy then thì vật dụng 
thầy dùng là cây đàn tính, còn với thầy pựt thì có chiếc quạt và xóc nhạc (nhiều 
quả nhỏ ghép nối lại với nhau bằng các vòng tròn sắt hoặc đồng). Màu sắc chủ đạo 
trong trang phục các thầy mặc khi làm lễ là đỏ, vàng, chàm, trắng. Mỗi một màu 
tương ứng với một vị thần linh. Khi những làn điệu then cổ cất lên với tiếng đàn 
tính hoặc tiếng xóc nhạc hòa với lễ phục nhiều màu sắc của thầy tạo nên không 
gian nghi lễ huyền ảo mang đậm dấu ấn tâm linh, là tổng hòa của thiên - địa - 
nhân.
Theo giàng Bế Sơn Chung - một nghệ nhân 
then sinh ra trong gia đình có 8 đời làm pựt (giàng), một lễ giải hạn tùy thuộc 
vào các cúng lễ của từng thầy và ý nguyện của gia chủ mà có các bước tiến hành 
nghi thức lễ khác nhau. Nhưng trong một lễ giải hạn, các nghi lễ bước chung nhất 
thường gồm các phần: Nhập môn, thỉnh tướng (bước vào với tổ tiên để báo lên tổ 
tiên và mời tổ tiên về để con cháu trong gia đình được dâng các lễ vật); bốc 
mệnh (dự đoán bản mệnh của người để biết được khái quát về công danh tài lộc, sự 
thọ yểu, thăng trầm, những bệnh tật hay tai họa trong cuộc đời); trừ tà (diệt 
trừ tà ma, quét sạch những vận xui, rủi ro...); hành yên, lập phú (cầu bình an, 
tài lộc). Trong đó có nhiều đoạn kể, du ký, vào chợ trời, lên thiên đình. Có lúc 
có những động thái sa man (ma nhập vào người) nói chuyện với ma, phán quyết với 
người, kiểu lên đồng một lúc sau trở lại bình thường. Trong lễ cúng giải hạn 
ngoài những lời then, điệu hát cổ thì thầy sẽ dùng hai thẻ gỗ để gieo quẻ, để 
xin lộc tới cho gia đình. Nếu như gia chủ thành tâm và âm phần trong nhà tốt thì 
việc xin quẻ sẽ diễn ra thuận lợi, lễ cúng sẽ diễn ra suôn sẻ và kết thúc tốt 
đẹp.

Đồ lễ để cúng trong lễ giải 
hạn.
Lễ giải hạn nói chung cũng như lẩu then, lẩu pựt đều là 
các hình thức diễn xướng cổ của người dân tộc Tày, Nùng, là 
hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian lâu đời. Với lòng tin 
thuần phác, người dân tộc Tày, Nùng làm lễ giải hạn nhằm cầu mong 
một cuộc sống an lành cho những người đang sống, những người đã khuất và 
cả thế giới tâm linh đều yên ổn. Họ cần một chỗ dựa tinh thần song không cuồng 
tín, khi gặp tai họa, ốm đau thì theo quan niệm chung của mọi người “Vô phúc vái tứ phương, ma cũng cầu, thuốc cũng chữa”. Tuy nhiên, 
hiện nay do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế thị trường, cũng như nhận thức về giá 
trị văn hóa truyền thống ở một bộ phận người dân có những thay đổi nhất định, 
cùng sự giao thoa giữa các yếu tố văn hóa mới đã tác động đến loại hình dân gian 
truyền thống này khiến lễ giải hạn đã không còn giữ nguyên ý nghĩa ban đầu của 
nó, như: Một số gia đình có điều kiện sẵn sàng bỏ ra hàng triệu đồng, thậm chí 
hàng chục triệu đồng để mời thầy về cúng lễ cho gia đình làm ăn phát đạt; một số 
gia đình không có điều kiện nhưng vì quá “tín” nên sẵn sàng bán cả tài sản trong 
nhà để làm lễ; lễ giải hạn bị lạm dụng (làm lễ giải hạn khi làm ăn buôn bán 
không thuận lợi, mất của, thi cử, lận đận tình duyên...) nên các nghi lễ trở nên 
rườm rà và tổ chức một cách bừa bãi... Ngoài ra, các thầy then, thầy pựt đang 
dần ít đi, dẫn tới nguy cơ mai một ngày càng cao. Vì vậy, việc bảo tồn và phát 
huy những giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có lễ giải hạn là việc làm hết 
sức cần thiết, cần sự quan tâm của các cấp, các ngành và của toàn xã hội để loại 
hình văn hóa tín ngưỡng dân gian mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc này giữ được 
nguyên giá trị ban 
đầu.
Khánh Hà





