
Trang phục dân tộc thiểu số ở Việt Nam thường nhiều màu 
rực rỡ vui vẻ. Phải xuất phát từ cái cơ bản, cái gốc mới tạo nên 
cái mới tuyệt đẹp hấp dẫn. Có rễ sâu cây cổ thụ mới sống lâu và vươn cao kiêu 
hãnh giữa bầu trời. Đó là khi ta ngắm nhìn các nhà sàn đẹp và những chiếc váy 
xòe màu sắc trên bản.
Đường dài, vòng vòng qua 
núi,
gần 
nửa ngày đường tôi chẳng thấy nhà sàn, chỉ thấy toàn nhà bê tông, nhà lớp ngói, 
lợp tôn lổn nhổn hai bên đường quốc lộ với lèo tèo với mấy cái quán ăn sơn lem 
nhem, bán mấy thứ linh tinh trước cửa. Đến nơi chúng tôi được đón tiếp ở khu nhà 
tầng như khu tập thể dưới Hà Nội thời bao cấp. Chúng tôi đến một nơi như doanh 
trại cũ của Pháp trước kia. Thị trấn chẳng còn bóng nhà sàn, cũng chẳng thấy 
bóng áo chàm. Các cháu người dân tộc và mọi người đều mặc quần áo như người 
Kinh. Kinh hóa và xi măng đến tận đỉnh núi. Ngày hôm sau đúng phiên chợ, tôi mới 
thấy một phụ nữ đứng tuổi mặc bộ váy người Dao, đeo vòng rất ấn tượng, và lác 
đác vài người mặc trang phục dân tộc Tày. Chiều đi vào bản Hon, thăm nhà một 
trưởng bản, tôi mới tận mắt thấy cái nhà sàn giữa núi rừng. Phụ nữ Tày đứng tuổi 
ở đây còn giữ nếp sống cổ xưa không ra tiếp khách. Cụ trưởng bản Hon đón chúng 
tôi. Trời đã chập choạng tối, thấp thoáng một người đàn bà mặc áo chàm đi lên 
địu giỏ ngô khô mang cất lên góc nhà sàn để chuẩn bị làm rượu. Bây giờ tôi mới 
hiểu, trang phục Tày hết sức đơn giản, chỉ có đơn thuần một màu chàm. Trang phục 
giống nhau cho cả ngày lễ, ngày tang, ngày cưới, lao động, chợ 
xuân...
Để làm thơm trang phục, phụ nữ Tày ướp loại 
lá hoắc hương rất thơm, cũng thường dùng làm thuốc để trong rương đựng trang 
phục. Bình thường thì họ dệt vải đơn giản hoặc mua vải nơi khác đem về nhuộm 
chàm. Một số trang phục trang trọng hơn, họ dệt những hoa văn thiên nhiên quen 
thuộc như hoa, lá ẩn trên vải. Khi nhuộm nét đó đậm mầu vằn lên trông rất đẹp. 
Họa tiết được ký họa là những hình để thích hợp với việc dệt trên khung dệt. Bố 
cục giản đơn họa tiết theo phương pháp ô quả trám có các đường viền xung quanh 
tạo thành các đường diềm gãy khúc. Trong các ô quả trám là họa tiết cách điệu 
hóa hình họa, hình ngọn rau bầu, bí là loại cây có liên quan nhiều đến nền văn 
hóa cổ, tín ngưỡng cổ của nhiều cư dân nông nghiệp ở phía Bắc nước ta, trong đó 
có người Tày. Trang phục của họ giản dị, nhưng đồ chăn màn, khăn che bàn thờ tổ 
tiên lại có màu sắc, có thêm diềm ở phía trên  tương ứng với cõi dương - Trời; 
có hình các vị thần linh, bảo hộ cho sự sống bình an của con người và thêm đường 
diềm ở phía dưới  tương ứng với cõi âm - đất với hình con ngựa, con chim là 
những hình tượng biểu trưng cho cuộc sống, cỏ cây, muông thú trên mặt đất như 
quan niệm về vũ trụ của dân 
gian.
Người Tày sống giản dị nhưng trân trọng 
người đã khuất. Họ tin thế giới linh hồn bên kia luôn phù trợ họ. Họ trân trọng 
làm lễ tiễn đưa hồn người đã khuất về thế giới bên kia. Mong muốn hạnh phúc nơi 
vĩnh hằng, có âm dương hòa hợp, nên phụ nữ Tày không chồng không con tức là chưa 
có hạnh phúc trong cuộc đời dương thế, về bên kia sẽ cũng cô đơn. Theo quan niệm 
người Tày, những phụ nữ này vẫn phải hóa kiếp trở về cõi nhân gian. Khi nào đầy 
đủ cuộc sống lứa đôi mới được lên trên thế giới vĩnh hằng đó. Đó là một quan 
niệm nhân bản, để con người không sống ích kỷ, lẻ loi và chỉ nghĩ đến bản thân, 
nam nữ phải hòa đồng, chia sẻ trong cuộc sống thực tại và có trách nhiệm bảo tồn 
nòi giống. Kẻ cô đơn bị coi như là còn ích kỷ. Thế giới bên kia hạnh phúc, lứa 
đôi, không có người cô đơn, bất hạnh, không có ích kỷ. Nên ai muốn về được thế 
giới bên kia hạnh phúc, thì ngay từ khi còn sống phải cố gắng cho mình có hạnh 
phúc lứa đôi và có trách nhiệm bảo tồn nòi giống. Một quan niệm hết sức nhân 
bản. Một cách giúp con người phải đi tìm và xây dựng hạnh phúc để âm dương hòa 
hợp ngay từ dương 
gian.
Theo phong  tục Tày hầu như các màu sắc chỉ 
được dùng trong hoa văn trang trí trên mặt chăn hay các tấm thổ cẩm chứ không 
được dùng trên trang phục. Người Tày mặc giống nhau như mặc đồng phục mang một ý 
nghĩa nhân bản. Các dân tộc khác cũng có trang phục riêng để nhận nhau. Thời 
trước không có căn cước, giấy tờ, con người hòa đồng cùng thiên nhiên, đi giữa 
rừng có thể lạc hoặc xảy ra tai nạn. Nếu ai đó tình cờ trông thấy chỉ cần qua 
sắc phục là họ biết dân tộc nào, thì họ giúp đưa về bản đó, hoặc gọi ra đón về. 
Đó là hình thức nhận ra nhau và phân biệt với dân tộc xung quanh. Dù đi đâu, 
người cùng dân tộc cũng nhận ra đồng hương qua trang phục. Trang phục Tày giản 
dị nhất so với các trang phục dân tộc khác, không màu mè, để không phân biệt 
nghèo giầu. Khi đến ngày lễ hội vui của bản, người nghèo không mặc cảm vì quần 
áo, hay phải lủi trốn không dám đến. Họ sẽ không bị coi thường vì trang phục. 
Khi đi ra đồng, hay tiếp khách đều tiện, không cầu kỳ phải thay trang phục, 
không phải bận tâm vì không có quần áo sang mới dám đón khách. Khách chủ như 
nhau. Quần áo không đánh giá con người. Tình người mới quan trọng. Thường ngày 
lễ họ chỉ cần chọn bộ mới nhất đem ra mặc. Không ai bị chê cười vì không mặc 
đúng kiểu, đúng thời trang. Không ai phải lựa chọn bạn đời qua mác hiệu quần áo. 
Sự đơn điệu trong trang phục còn thể hiện nếp sống kỷ luật của dân tộc Tày. Tất 
cả như nhau, khi giúp đỡ nhau, có thể mượn trang phục của nhau mà không ai biết 
nghèo phải mượn… Người Tày vì lý do gì phải đi xa bản lập nghiệp khi trở về quê 
hương không ngại bị đánh giá sự thành công nếu vẫn mặc quần áo sắc tộc đến chào 
bà con.

Có người cho rằng mặc thế trông nghèo nàn. 
Mỗi sắc tộc có quan niệm sống khác biệt. Chính sự đơn giản có thể là nguyên nhân 
dân tộc Tày phát triển và giữ vững được cộng đồng của mình. Dân tộc Tày chiếm 
20% tổng số dân tộc thiểu số (gồm 53 dân tộc trên 500 người, không tính người 
Kinh, vậy người Tày có khoảng 1,6 triệu người, sống rải từng khu ở vùng núi miền 
Bắc: Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Quảng Ninh, 
Lào Cai, Hà Giang. Dân tộc Tày chiếm 1,89% dân số người Việt Nam, đứng thứ 2 sau 
người Kinh. Dân tộc Tày phát triển mạnh dù địa lý hiểm trở, núi cao. Dân tộc 
Thái cũng như dân tộc Tày có nguồn gốc chung ngôn ngữ cổ, văn hóa có những nét 
tương đồng, nhưng trang phục Thái rất đa sắc. Có thể người Tày gốc chung một 
nguồn, nhưng do ban đầu nghèo hơn, với lòng tự trọng cao, tự lập nên đã tách ra 
và tạo nên dân tộc mang sắc thái riêng. Có thể tổ tiên ban đầu đi lập nghiệp 
nghèo, đã hiểu được cái tầm quan trọng của trang phục đối với sự đoàn kết anh em 
họ hàng, nên các trưởng tộc trong bản đã quyết định đơn giản hóa trang phục, 
trong mọi sinh hoạt. Hơn nữa kỹ thuật nhuộm màu ban đầu không thể nhiều màu như 
ngày nay. Màu chàm là màu thông dụng. Việc đơn giản hóa trang phục giúp người 
phụ nữ nhiều thời gian chăm lo giáo dục con cái và đồng áng hơn là suốt ngày 
phải lo trang phục đẹp để khoe với mọi người. Trang phục đồng bộ đơn giản giúp 
con người xích lại dễ dàng hơn, đồng cảm và tính đồng hương cao. Thời trước, 
ngay vua chúa Việt Nam cũng nghèo, trang phục đơn giản. Sự giản đơn của trang 
phục dân tộc Tày đã tạo nên sự liên kết giữa con người với nhau, mang ý nghĩa 
nhân bản trong sự tương trợ giúp đỡ nhau khi xã hội kinh tế chưa phát triển, còn 
du canh du cư trên miền núi phía Bắc lạnh lẽo và đầy thú 
dữ.
Rất tiếc ngày nay các bản người Tày đã bị 
Kinh hóa nhiều, các cô gái Tày mặc quần bò, váy đầm ngắn. Tất nhiên trong sự hội 
nhập với cả nước, và để phù hợp với công nghiệp hiện đại, họ không biết rằng họ 
sẽ đang rơi vào xu hướng mất bản sắc dân tộc. Khách du lịch đến Bắc Kạn hay đi 
Tuyên Quang, Hà Giang… ngắm hồ Ba Bể hay miền núi hoang sơ chứ không phải để 
ngắm những nam nữ dân tộc mặc quần bò, áo thun, nghe hát rap, và xem những ngôi 
nhà xi măng, nhà lầu, xe hơi… Họ thèm khát sự thay đổi không khí trong lành chưa 
bị ô nhiễm vì công nghiệp, với những con ngựa thồ trên núi, với những tiếng khèn 
gọi bạn, với những trang phục dân tộc và những nhà sàn lạ mắt… Đó là một nguồn 
thu nhập du lịch đáng kể, nếu như biết tổ chức và khai thác. Ngay bên bờ biển 
sát vách núi ở vùng Saint Lunaire, một vùng biển phía Tây Bắc nước Pháp, nơi có 
rất nhiều người đã từng có mặt ở Đông Dương, nỗi nhớ Đông Dương cho họ một ý 
tưởng lợp nhà bằng gianh, và đặt tên Quán “Gianh” (Bar “chaumière”). Trong khi 
đó chúng ta đang có sẵn lại phá đi để xây mấy cái nhà lợp tôn nóng bức, làm hỏng 
cả quần thể của núi rừng phía Bắc. Tại sao chúng ta không nghiên cứu sử dụng kỹ 
thuật hiện đại kết hợp dùng nóc nhà gianh, xây kiểu nhà sàn, vẫn bền và giữ bản 
sắc dân tộc và thu hút được khách du 
lịch?
Nếu qua Paris chúng ta có thể gặp nhiều 
người phụ nữ Ấn Độ vẫn khoác cái khăn, áo xà rông của họ ngoài phố, phụ nữ châu 
Phi mặc áo màu rực rỡ giữa thành phố văn minh đầy kiêu hãnh, ở Việt Nam chúng ta 
ít khi gặp người thiểu số mặc trang phục dân tộc đi ngoài thành phố lớn. Phải 
chăng họ bị mặc cảm vì sự xa lạ giữa quần thể người Kinh đông đúc? Người Việt 
vốn hay tò mò nhìn họ, xem là dân trên núi xuống. Họ chỉ thay trang phục khi có 
yêu cầu buổi dạ hội, và có xe đến đón đi biểu diễn, hoặc đến nơi mới thay, họ 
không mặc trang phục của dân tộc mình ra đường. Ngày nay nhiều người mặc áo đũi, 
vải thô mát, kiểu dân tộc ở thành phố đã tạo ra một cái nhìn quen thuộc. Nhưng 
những tấm áo dài phụ nữ dân tộc hầu như không thấy xuất hiện ngoài đường. Tất 
nhiên do điều kiện giao thông, trang phục phụ nữ dân tộc không thể chen lấn ô tô 
buýt hay tàu xe, nhưng tại sao họ lại bắt chước trang phục phụ nữ phương Tây mặc 
váy ngắn dài đi làm bằng xe máy, xe đạp được, nhưng lại ngại mặc quần áo dân tộc 
của chính họ? Sự quen mắt và lạ đẹp sẽ trở thành mốt. Phụ nữ Kinh giờ đây sành 
điệu cũng sử dụng vòng bạc khuyên bạc kiểu dân tộc, khoác túi thổ cẩm đa sắc, 
trông vừa hiện đại vừa dân tộc tính khi đi chơi. Chúng ta biết mang trang phục 
thổ cẩm ra giới thiệu với người phương Tây, nhưng lại ngại giới thiệu với dân cả 
nước cùng đồng bào mình. Khi ra nước ngoài thì người Kinh lại mang túi, khăn, 
áo, quần thổ cẩm làm quà cho bạn Tây. Người dân tộc đang nắm trong tay cái bảo 
vật quý, quốc hồn quốc túy mà họ không biết trân 
trọng.
Dân tộc Bách Việt vốn đa màu sắc, tại sao 
chúng ta không khuyến khích mọi người mặc áo dân tộc ngoài phố để giúp phát 
triển kinh tế các vùng dân tộc và giữ bản sắc phong phú các dân tộc mà lại đi 
nhập cảng tràn lan những áo rẻ tiền bắt chước dân tộc thiểu số và nhuộm dởm bằng 
hóa chất. Ngày hội vui, tại sao mọi người cứ phải thích hóa trang kiểu Tây không 
hóa trang làm 54 dân tộc, vừa lôi kéo khách du lịch vừa đậm đà bản sắc dân tộc. 
Cái gì ban đầu lạ, nhưng dùng nhiều thành quen mắt và trở thành quốc túy. Phở, 
nem Việt Nam được thế giới biết đến như thịt bò Kobe, Pizza, Mcdonald, được biết 
đến ở Việt Nam hiện nay… Vậy để phát huy và giữ bản sắc dân tộc, phải chính bản 
thân người dân tộc phải nỗ lực và tự hào cái mình hiện có, đem nó từ cái không 
phổ biến của dân tộc ít người trở thành cái phổ biến, như vòng bạc, áo khăn thổ 
cẩm và các món ăn đặc sản của núi rừng. Trong khi trang phục của các dân tộc 
thiểu số ở Việt Nam tuyệt diệu ít được khai thác, thì quần áo trang phục Tây thì 
được bày bán nhan nhản và toàn sản xuất từ Trung Quốc. Tiếng Việt phong phú, 
nhưng các chương trình giải trí trên vô tuyến lại dùng tiếng Anh dân dã xen vào 
như “yes” rồi vỗ tay vào nhau đánh chát, chưa kể người dẫn chương trình (gọi là 
M.C) còn phát âm chưa chuẩn ngoại ngữ, đôi khi gây nực cười như “Việt Nam ai đần 
(idol)”…
Người Việt hầu như ai cũng giữ tục lệ thờ 
cúng tổ tiên. Hồn các cụ về tưởng bị lạc đường, nhầm nhà vì ngôn ngữ loạn tiếng 
Anh nhiều. Người ta thi nhau dịch trinh thám, chuyện rùng rợn ở phương Tây, 
trong khi các dân tộc ít người có nhiều chuyện truyền khẩu ly kỳ hấp dẫn không 
kém. Dương Thuấn nhà thơ dân tộc Tày, đã chịu khó sưu tầm ghi chép lại thơ, 
truyện truyền khẩu, cùng phong tục của dân tộc mình giới thiệu ra cho cả nước và 
thế giới biết. Lê Anh Hoài người Kinh đi ngược xu hướng thức thời của thiên hạ 
bằng việc đem thơ mình nhờ dịch ra tiếng thiểu số: Kh’mer, Lô Lô, K’Ho và chữ 
Nôm để mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc gìn giữ bản sắc ngôn ngữ dân tộc và 
hòa nhập dân tộc. Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn, nổi tiếng nhờ chất 
ly kỳ rùng rợn của rừng tác giả tích lũy được sau nhiều năm chung sống với đồng 
bào thiểu số… Đó là khát vọng của một số người cầm bút tâm huyết với văn hóa 
ngôn ngữ dân tộc, yêu thiên nhiên muôn màu và hòa hợp các dân 
tộc.
Sự tồn tại của bản sắc riêng của hồn dân tộc đánh dấu sự 
hiện diện của nó. Hương hoa hồng khác hoa nhài, hoa cúc, hoa lan. Thiên nhiên 
đẹp vì đa màu sắc, đa hương. Hoa nào cũng thơm, cũng đẹp, nét đặc 
trưng văn hóa nào cũng mang tính nhân bản và hữu ích riêng nếu ta biết nâng niu, 
trân trọng nó. Sự lai căng cũng tạo sắc thái riêng, nhưng sẽ giết dần bản sắc 
dân tộc. Tất cả mọi xu hướng đều quý, nhưng bản sắc dân tộc cần giữ như bảy nốt 
nhạc cơ bản làm nên bản nhạc giao hưởng hùng tráng hay thiết tha nhờ người soạn 
giả xuất chúng và cũng chỉ mấy màu cơ bản hòa quyện thành những bức tranh đẹp 
dưới tay người họa sỹ tài 
ba.
Phải xuất phát từ cái cơ bản, cái gốc mới 
tạo nên cái mới tuyệt đẹp hấp dẫn. Có rễ sâu cây cổ thụ mới sống lâu và vươn cao 
kiêu hãnh giữa bầu 
trời.
Hồng Hải

Trang phục dân tộc thiểu số ở Việt Nam thường nhiều màu 
rực rỡ vui vẻ. Phải xuất phát từ cái cơ bản, cái gốc mới tạo nên 
cái mới tuyệt đẹp hấp dẫn. Có rễ sâu cây cổ thụ mới sống lâu và vươn cao kiêu 
hãnh giữa bầu trời. Đó là khi ta ngắm nhìn các nhà sàn đẹp và những chiếc váy 
xòe màu sắc trên 
bản.
Đường dài, vòng vòng qua 
núi,
gần 
nửa ngày đường tôi chẳng thấy nhà sàn, chỉ thấy toàn nhà bê tông, nhà lớp ngói, 
lợp tôn lổn nhổn hai bên đường quốc lộ với lèo tèo với mấy cái quán ăn sơn lem 
nhem, bán mấy thứ linh tinh trước cửa. Đến nơi chúng tôi được đón tiếp ở khu nhà 
tầng như khu tập thể dưới Hà Nội thời bao cấp. Chúng tôi đến một nơi như doanh 
trại cũ của Pháp trước kia. Thị trấn chẳng còn bóng nhà sàn, cũng chẳng thấy 
bóng áo chàm. Các cháu người dân tộc và mọi người đều mặc quần áo như người 
Kinh. Kinh hóa và xi măng đến tận đỉnh núi. Ngày hôm sau đúng phiên chợ, tôi mới 
thấy một phụ nữ đứng tuổi mặc bộ váy người Dao, đeo vòng rất ấn tượng, và lác 
đác vài người mặc trang phục dân tộc Tày. Chiều đi vào bản Hon, thăm nhà một 
trưởng bản, tôi mới tận mắt thấy cái nhà sàn giữa núi rừng. Phụ nữ Tày đứng tuổi 
ở đây còn giữ nếp sống cổ xưa không ra tiếp khách. Cụ trưởng bản Hon đón chúng 
tôi. Trời đã chập choạng tối, thấp thoáng một người đàn bà mặc áo chàm đi lên 
địu giỏ ngô khô mang cất lên góc nhà sàn để chuẩn bị làm rượu. Bây giờ tôi mới 
hiểu, trang phục Tày hết sức đơn giản, chỉ có đơn thuần một màu chàm. Trang phục 
giống nhau cho cả ngày lễ, ngày tang, ngày cưới, lao động, chợ 
xuân...
Để làm thơm trang phục, phụ nữ Tày ướp loại 
lá hoắc hương rất thơm, cũng thường dùng làm thuốc để trong rương đựng trang 
phục. Bình thường thì họ dệt vải đơn giản hoặc mua vải nơi khác đem về nhuộm 
chàm. Một số trang phục trang trọng hơn, họ dệt những hoa văn thiên nhiên quen 
thuộc như hoa, lá ẩn trên vải. Khi nhuộm nét đó đậm mầu vằn lên trông rất đẹp. 
Họa tiết được ký họa là những hình để thích hợp với việc dệt trên khung dệt. Bố 
cục giản đơn họa tiết theo phương pháp ô quả trám có các đường viền xung quanh 
tạo thành các đường diềm gãy khúc. Trong các ô quả trám là họa tiết cách điệu 
hóa hình họa, hình ngọn rau bầu, bí là loại cây có liên quan nhiều đến nền văn 
hóa cổ, tín ngưỡng cổ của nhiều cư dân nông nghiệp ở phía Bắc nước ta, trong đó 
có người Tày. Trang phục của họ giản dị, nhưng đồ chăn màn, khăn che bàn thờ tổ 
tiên lại có màu sắc, có thêm diềm ở phía trên  tương ứng với cõi dương - Trời; 
có hình các vị thần linh, bảo hộ cho sự sống bình an của con người và thêm đường 
diềm ở phía dưới  tương ứng với cõi âm - đất với hình con ngựa, con chim là 
những hình tượng biểu trưng cho cuộc sống, cỏ cây, muông thú trên mặt đất như 
quan niệm về vũ trụ của dân 
gian.
Người Tày sống giản dị nhưng trân trọng 
người đã khuất. Họ tin thế giới linh hồn bên kia luôn phù trợ họ. Họ trân trọng 
làm lễ tiễn đưa hồn người đã khuất về thế giới bên kia. Mong muốn hạnh phúc nơi 
vĩnh hằng, có âm dương hòa hợp, nên phụ nữ Tày không chồng không con tức là chưa 
có hạnh phúc trong cuộc đời dương thế, về bên kia sẽ cũng cô đơn. Theo quan niệm 
người Tày, những phụ nữ này vẫn phải hóa kiếp trở về cõi nhân gian. Khi nào đầy 
đủ cuộc sống lứa đôi mới được lên trên thế giới vĩnh hằng đó. Đó là một quan 
niệm nhân bản, để con người không sống ích kỷ, lẻ loi và chỉ nghĩ đến bản thân, 
nam nữ phải hòa đồng, chia sẻ trong cuộc sống thực tại và có trách nhiệm bảo tồn 
nòi giống. Kẻ cô đơn bị coi như là còn ích kỷ. Thế giới bên kia hạnh phúc, lứa 
đôi, không có người cô đơn, bất hạnh, không có ích kỷ. Nên ai muốn về được thế 
giới bên kia hạnh phúc, thì ngay từ khi còn sống phải cố gắng cho mình có hạnh 
phúc lứa đôi và có trách nhiệm bảo tồn nòi giống. Một quan niệm hết sức nhân 
bản. Một cách giúp con người phải đi tìm và xây dựng hạnh phúc để âm dương hòa 
hợp ngay từ dương 
gian.
Theo phong  tục Tày hầu như các màu sắc chỉ 
được dùng trong hoa văn trang trí trên mặt chăn hay các tấm thổ cẩm chứ không 
được dùng trên trang phục. Người Tày mặc giống nhau như mặc đồng phục mang một ý 
nghĩa nhân bản. Các dân tộc khác cũng có trang phục riêng để nhận nhau. Thời 
trước không có căn cước, giấy tờ, con người hòa đồng cùng thiên nhiên, đi giữa 
rừng có thể lạc hoặc xảy ra tai nạn. Nếu ai đó tình cờ trông thấy chỉ cần qua 
sắc phục là họ biết dân tộc nào, thì họ giúp đưa về bản đó, hoặc gọi ra đón về. 
Đó là hình thức nhận ra nhau và phân biệt với dân tộc xung quanh. Dù đi đâu, 
người cùng dân tộc cũng nhận ra đồng hương qua trang phục. Trang phục Tày giản 
dị nhất so với các trang phục dân tộc khác, không màu mè, để không phân biệt 
nghèo giầu. Khi đến ngày lễ hội vui của bản, người nghèo không mặc cảm vì quần 
áo, hay phải lủi trốn không dám đến. Họ sẽ không bị coi thường vì trang phục. 
Khi đi ra đồng, hay tiếp khách đều tiện, không cầu kỳ phải thay trang phục, 
không phải bận tâm vì không có quần áo sang mới dám đón khách. Khách chủ như 
nhau. Quần áo không đánh giá con người. Tình người mới quan trọng. Thường ngày 
lễ họ chỉ cần chọn bộ mới nhất đem ra mặc. Không ai bị chê cười vì không mặc 
đúng kiểu, đúng thời trang. Không ai phải lựa chọn bạn đời qua mác hiệu quần áo. 
Sự đơn điệu trong trang phục còn thể hiện nếp sống kỷ luật của dân tộc Tày. Tất 
cả như nhau, khi giúp đỡ nhau, có thể mượn trang phục của nhau mà không ai biết 
nghèo phải mượn… Người Tày vì lý do gì phải đi xa bản lập nghiệp khi trở về quê 
hương không ngại bị đánh giá sự thành công nếu vẫn mặc quần áo sắc tộc đến chào 
bà con.

Có người cho rằng mặc thế trông nghèo nàn. 
Mỗi sắc tộc có quan niệm sống khác biệt. Chính sự đơn giản có thể là nguyên nhân 
dân tộc Tày phát triển và giữ vững được cộng đồng của mình. Dân tộc Tày chiếm 
20% tổng số dân tộc thiểu số (gồm 53 dân tộc trên 500 người, không tính người 
Kinh, vậy người Tày có khoảng 1,6 triệu người, sống rải từng khu ở vùng núi miền 
Bắc: Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Quảng Ninh, 
Lào Cai, Hà Giang. Dân tộc Tày chiếm 1,89% dân số người Việt Nam, đứng thứ 2 sau 
người Kinh. Dân tộc Tày phát triển mạnh dù địa lý hiểm trở, núi cao. Dân tộc 
Thái cũng như dân tộc Tày có nguồn gốc chung ngôn ngữ cổ, văn hóa có những nét 
tương đồng, nhưng trang phục Thái rất đa sắc. Có thể người Tày gốc chung một 
nguồn, nhưng do ban đầu nghèo hơn, với lòng tự trọng cao, tự lập nên đã tách ra 
và tạo nên dân tộc mang sắc thái riêng. Có thể tổ tiên ban đầu đi lập nghiệp 
nghèo, đã hiểu được cái tầm quan trọng của trang phục đối với sự đoàn kết anh em 
họ hàng, nên các trưởng tộc trong bản đã quyết định đơn giản hóa trang phục, 
trong mọi sinh hoạt. Hơn nữa kỹ thuật nhuộm màu ban đầu không thể nhiều màu như 
ngày nay. Màu chàm là màu thông dụng. Việc đơn giản hóa trang phục giúp người 
phụ nữ nhiều thời gian chăm lo giáo dục con cái và đồng áng hơn là suốt ngày 
phải lo trang phục đẹp để khoe với mọi người. Trang phục đồng bộ đơn giản giúp 
con người xích lại dễ dàng hơn, đồng cảm và tính đồng hương cao. Thời trước, 
ngay vua chúa Việt Nam cũng nghèo, trang phục đơn giản. Sự giản đơn của trang 
phục dân tộc Tày đã tạo nên sự liên kết giữa con người với nhau, mang ý nghĩa 
nhân bản trong sự tương trợ giúp đỡ nhau khi xã hội kinh tế chưa phát triển, còn 
du canh du cư trên miền núi phía Bắc lạnh lẽo và đầy thú 
dữ.
Rất tiếc ngày nay các bản người Tày đã bị 
Kinh hóa nhiều, các cô gái Tày mặc quần bò, váy đầm ngắn. Tất nhiên trong sự hội 
nhập với cả nước, và để phù hợp với công nghiệp hiện đại, họ không biết rằng họ 
sẽ đang rơi vào xu hướng mất bản sắc dân tộc. Khách du lịch đến Bắc Kạn hay đi 
Tuyên Quang, Hà Giang… ngắm hồ Ba Bể hay miền núi hoang sơ chứ không phải để 
ngắm những nam nữ dân tộc mặc quần bò, áo thun, nghe hát rap, và xem những ngôi 
nhà xi măng, nhà lầu, xe hơi… Họ thèm khát sự thay đổi không khí trong lành chưa 
bị ô nhiễm vì công nghiệp, với những con ngựa thồ trên núi, với những tiếng khèn 
gọi bạn, với những trang phục dân tộc và những nhà sàn lạ mắt… Đó là một nguồn 
thu nhập du lịch đáng kể, nếu như biết tổ chức và khai thác. Ngay bên bờ biển 
sát vách núi ở vùng Saint Lunaire, một vùng biển phía Tây Bắc nước Pháp, nơi có 
rất nhiều người đã từng có mặt ở Đông Dương, nỗi nhớ Đông Dương cho họ một ý 
tưởng lợp nhà bằng gianh, và đặt tên Quán “Gianh” (Bar “chaumière”). Trong khi 
đó chúng ta đang có sẵn lại phá đi để xây mấy cái nhà lợp tôn nóng bức, làm hỏng 
cả quần thể của núi rừng phía Bắc. Tại sao chúng ta không nghiên cứu sử dụng kỹ 
thuật hiện đại kết hợp dùng nóc nhà gianh, xây kiểu nhà sàn, vẫn bền và giữ bản 
sắc dân tộc và thu hút được khách du 
lịch?
Nếu qua Paris chúng ta có thể gặp nhiều 
người phụ nữ Ấn Độ vẫn khoác cái khăn, áo xà rông của họ ngoài phố, phụ nữ châu 
Phi mặc áo màu rực rỡ giữa thành phố văn minh đầy kiêu hãnh, ở Việt Nam chúng ta 
ít khi gặp người thiểu số mặc trang phục dân tộc đi ngoài thành phố lớn. Phải 
chăng họ bị mặc cảm vì sự xa lạ giữa quần thể người Kinh đông đúc? Người Việt 
vốn hay tò mò nhìn họ, xem là dân trên núi xuống. Họ chỉ thay trang phục khi có 
yêu cầu buổi dạ hội, và có xe đến đón đi biểu diễn, hoặc đến nơi mới thay, họ 
không mặc trang phục của dân tộc mình ra đường. Ngày nay nhiều người mặc áo đũi, 
vải thô mát, kiểu dân tộc ở thành phố đã tạo ra một cái nhìn quen thuộc. Nhưng 
những tấm áo dài phụ nữ dân tộc hầu như không thấy xuất hiện ngoài đường. Tất 
nhiên do điều kiện giao thông, trang phục phụ nữ dân tộc không thể chen lấn ô tô 
buýt hay tàu xe, nhưng tại sao họ lại bắt chước trang phục phụ nữ phương Tây mặc 
váy ngắn dài đi làm bằng xe máy, xe đạp được, nhưng lại ngại mặc quần áo dân tộc 
của chính họ? Sự quen mắt và lạ đẹp sẽ trở thành mốt. Phụ nữ Kinh giờ đây sành 
điệu cũng sử dụng vòng bạc khuyên bạc kiểu dân tộc, khoác túi thổ cẩm đa sắc, 
trông vừa hiện đại vừa dân tộc tính khi đi chơi. Chúng ta biết mang trang phục 
thổ cẩm ra giới thiệu với người phương Tây, nhưng lại ngại giới thiệu với dân cả 
nước cùng đồng bào mình. Khi ra nước ngoài thì người Kinh lại mang túi, khăn, 
áo, quần thổ cẩm làm quà cho bạn Tây. Người dân tộc đang nắm trong tay cái bảo 
vật quý, quốc hồn quốc túy mà họ không biết trân 
trọng.
Dân tộc Bách Việt vốn đa màu sắc, tại sao 
chúng ta không khuyến khích mọi người mặc áo dân tộc ngoài phố để giúp phát 
triển kinh tế các vùng dân tộc và giữ bản sắc phong phú các dân tộc mà lại đi 
nhập cảng tràn lan những áo rẻ tiền bắt chước dân tộc thiểu số và nhuộm dởm bằng 
hóa chất. Ngày hội vui, tại sao mọi người cứ phải thích hóa trang kiểu Tây không 
hóa trang làm 54 dân tộc, vừa lôi kéo khách du lịch vừa đậm đà bản sắc dân tộc. 
Cái gì ban đầu lạ, nhưng dùng nhiều thành quen mắt và trở thành quốc túy. Phở, 
nem Việt Nam được thế giới biết đến như thịt bò Kobe, Pizza, Mcdonald, được biết 
đến ở Việt Nam hiện nay… Vậy để phát huy và giữ bản sắc dân tộc, phải chính bản 
thân người dân tộc phải nỗ lực và tự hào cái mình hiện có, đem nó từ cái không 
phổ biến của dân tộc ít người trở thành cái phổ biến, như vòng bạc, áo khăn thổ 
cẩm và các món ăn đặc sản của núi rừng. Trong khi trang phục của các dân tộc 
thiểu số ở Việt Nam tuyệt diệu ít được khai thác, thì quần áo trang phục Tây thì 
được bày bán nhan nhản và toàn sản xuất từ Trung Quốc. Tiếng Việt phong phú, 
nhưng các chương trình giải trí trên vô tuyến lại dùng tiếng Anh dân dã xen vào 
như “yes” rồi vỗ tay vào nhau đánh chát, chưa kể người dẫn chương trình (gọi là 
M.C) còn phát âm chưa chuẩn ngoại ngữ, đôi khi gây nực cười như “Việt Nam ai đần 
(idol)”…
Người Việt hầu như ai cũng giữ tục lệ thờ 
cúng tổ tiên. Hồn các cụ về tưởng bị lạc đường, nhầm nhà vì ngôn ngữ loạn tiếng 
Anh nhiều. Người ta thi nhau dịch trinh thám, chuyện rùng rợn ở phương Tây, 
trong khi các dân tộc ít người có nhiều chuyện truyền khẩu ly kỳ hấp dẫn không 
kém. Dương Thuấn nhà thơ dân tộc Tày, đã chịu khó sưu tầm ghi chép lại thơ, 
truyện truyền khẩu, cùng phong tục của dân tộc mình giới thiệu ra cho cả nước và 
thế giới biết. Lê Anh Hoài người Kinh đi ngược xu hướng thức thời của thiên hạ 
bằng việc đem thơ mình nhờ dịch ra tiếng thiểu số: Kh’mer, Lô Lô, K’Ho và chữ 
Nôm để mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc gìn giữ bản sắc ngôn ngữ dân tộc và 
hòa nhập dân tộc. Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn, nổi tiếng nhờ chất 
ly kỳ rùng rợn của rừng tác giả tích lũy được sau nhiều năm chung sống với đồng 
bào thiểu số… Đó là khát vọng của một số người cầm bút tâm huyết với văn hóa 
ngôn ngữ dân tộc, yêu thiên nhiên muôn màu và hòa hợp các dân 
tộc.
Sự tồn tại của bản sắc riêng của hồn dân tộc đánh dấu sự 
hiện diện của nó. Hương hoa hồng khác hoa nhài, hoa cúc, hoa lan. Thiên nhiên 
đẹp vì đa màu sắc, đa hương. Hoa nào cũng thơm, cũng đẹp, nét đặc 
trưng văn hóa nào cũng mang tính nhân bản và hữu ích riêng nếu ta biết nâng niu, 
trân trọng nó. Sự lai căng cũng tạo sắc thái riêng, nhưng sẽ giết dần bản sắc 
dân tộc. Tất cả mọi xu hướng đều quý, nhưng bản sắc dân tộc cần giữ như bảy nốt 
nhạc cơ bản làm nên bản nhạc giao hưởng hùng tráng hay thiết tha nhờ người soạn 
giả xuất chúng và cũng chỉ mấy màu cơ bản hòa quyện thành những bức tranh đẹp 
dưới tay người họa sỹ tài 
ba.
Phải xuất phát từ cái cơ bản, cái gốc mới 
tạo nên cái mới tuyệt đẹp hấp dẫn. Có rễ sâu cây cổ thụ mới sống lâu và vươn cao 
kiêu hãnh giữa bầu 
trời.
Hồng Hải





