
Bàn Thờ của người Dao
Ở Tuyên Quang, đồng bào Dao Quần Chẹt cư 
trú chủ yếu ở các xã Thanh Phát, Hợp Hoà, Kháng Nhật (huyện Sơn Dương). Phong 
tục tập quán của đồng bào phong phú, đặc sắc và được gìn giữ. Trong 
đời sống văn hóa tinh thần, đồng bào Dao Quần Chẹt coi trọng đạo lý, sống nghĩa 
tình, thể hiện cách ứng xử của mình thông qua các nghi lễ truyền thống như: Nghi 
lễ trong chu kỳ đời người, được thể hiện qua những tập tục trong sinh đẻ và nuôi 
dạy con, lễ cấp sắc nghi lễ cưới xin, ma chay. Đặc biệt là các nghi lễ tín 
ngưỡng liên quan đến thờ cúng tổ tiên luôn được đồng bào duy trì, thể hiện qua 
tục lệ tách tổ, dựng tổ mới.
Cây lớn thì phải chia cành, con lớn 
thì phải chia tổ, đó là quan niệm của đồng bào Dao Quần Chẹt. Trong 
chu kỳ đời người, đồng bào Dao Quần Chẹt phải thực hiện nghi lễ 
tách,dựng tổ. Con cái trưởng thành thì phải tách tổ để dựng tổ mới. Tổ mới 
được tách từ tổ già, nhưng chỉ được tách tổ khi nhà bố mẹ đã hoàn tất các nghi 
lễ vun tổ, tế mộ tổ, đã có tranh thờ..., gia đình đã cưới vợ cho con trai trưởng 
và các con thứ, đã làm lễ cấp sắc cho con trai. Gia đình sẽ bàn bạc để quyết 
định cho người con nào ra ở riêng, không nhất thiết phải là con trưởng hay con 
thứ, tiếp sau đó các con lần lượt đều phải tách tổ. Khi đã thống nhất, gia 
đình dự định thời gian và nhờ thầy cúng xem ngày tốt để tách tổ và dựng tổ 
mới.
Để thực hiện nghi lễ tách tổ, gia 
đình phải mời thầy cúng xin tổ tiên, hương hỏa chấp thuận cho tách tổ, che 
chở bảo vệ cho con cháu được yên lành. Cúng xong, người con trai được tách tổ 
lấy một ít tro bếp ở nhà bố mẹ vào bát hương đem về dâng lên bàn thờ nhà mới 
để thờ 
cúng.
Sau đó, gia đình thực hiện nghi lễ 
dựng tổ mới. Đây là nghi lễ cúng báo với tổ tiên việc đã làm xong lễ 
tách tổ, nay dựng tổ mới, cầu xin tổ tiên chấp 
thuận.
Cúng dựng tổ xong, gia đình lập một bàn thờ 
ở dưới bếp để cúng mời thần bếp về an vị, cai quản việc bếp núc, lễ cúng 
có 1 con 
gà.
 Tiếp theo, lễ cúng vun tổ được thực 
hiện sau khoảng một năm, khi đã hoàn tất việc tách, dựng tổ mới. Lễ 
cúng thực hiện để xin tổ tiên phù hộ cho con cháu ngày càng vun tổ lớn. Sau 1 
đến 2 năm, gia đình tiếp tục làm lễ hứa và trả lễ cho tổ tiên, hương hỏa. 
Nghi lễ này được gọi là hấu nhụn hào sthúng nhụn, thực hiện nghi lễ với mục đích 
để tiếp tục vun tổ lớn hơn. Làm lễ này phải qua các nghi lễ mà theo đồng 
bào gọi là hấu nhụn, pang nhụn, bủa nhụn và xé nhụn, các lễ này có thể làm 
trong tháng nào tuỳ điều kiện từng gia đình nhưng phải làm trong 1 năm, trong 
các lễ này chỉ dâng hương, nước và xin khất lễ mặn, lễ mặn được hứa 
khất tượng trưng vào  nhụn, đến khi vun tổ xong sẽ dâng vào lễ cúng xé 
nhụn.
Hấu nhụn là lễ cúng hương hoả và tổ tiên, 
xin phù hộ cho gia đình và hứa sẽ trả lễ cho Tam Thanh và Tổ tiên. Pang nhụn là 
nghi lễ cúng tổ tiên xin phù hộ cho gia đình và hứa sẽ trả lễ thêm tiền bạc, mục 
đích để vun tổ lớn thêm. Bủa nhụn nhằm mục đích vun tổ, khai quang tranh. Khi 
thực hiện lễ này, gia đình đã được có 1 bộ tranh thờ, đồng bào gọi tranh 
thờ là sò phảng, tượng trưng cho hương hoả chung của người Dao: 1 tranh là 
Tam Thanh nhỏ, 1 tranh là Bàn Vương). Sau khi khai quang tranh, gia đình làm lễ 
cảm tạ tổ tiên, hương hoả đã cho gia đình vun tổ được lớn dần và kết thúc 
bằng lễ vun tổ lớn (mạng 
noi).
Xé nhụn là nghi lễ được thực hiện khi đã 
kết thúc các lễ vun tổ và cúng hứa khất trả lễ cho tổ tiên, hương hỏa. Gia đình 
tháo gỡ các nhụn của các lần cúng khất, sau đó phải có lễ đủ như đã hứa là lợn, 
rượu, tiền bạc... để cúng cho tổ tiên và hương hoả. Cúng xong hoá tiền vàng và 
xé nhụn đi, coi như đã trả xong lễ đã 
hứa.
Sau khi thực hiện các nghi lễ trên, gia 
đình làm lễ tạ mả tổ. Xuất phát từ tập quán du canh du cư trước đây, mỗi 
khi chuyển nơi ở mới đồng bào không bốc mộ đi theo, do vậy ở nơi ở mới được đồng 
bào phân kỳ để thờ cúng tổ tiên thành ba đời: thượng, trung, hạ và thực hiện các 
lễ tạ mả hạ, trung, thượng. Lễ tạ mả phải làm một khu mộ tượng trưng cho mộ tổ 
tiên qua các đời để cúng tạ ơn. Sau khi làm lễ tạ mả hạ, mả trung, gia đình đã 
được phép có 2 bộ tranh thờ. Việc khai quang tranh là nghi lễ bắt buộc bởi vì 
theo quan niệm của đồng bào Dao Quần Chẹt, khi đã được phép có tranh thờ tức là 
trong nhà đã có thần thánh che chở. Tranh thờ thể hiện sự linh thiêng, do vậy 
phải có nghi lễ để làm cho tranh được soi sáng. Nghi lễ khai quang tranh thường 
được làm sau lễ tạ mả trung khoảng từ một đến hai năm. Gia đình có con trai đến 
tuổi làm lễ cấp sắc có thể kết hợp cấp sắc trong lễ khai quang tranh. Khi gia 
đình đã khai quang tranh là đã được phép thờ Tam Thanh, do vậy cần phải có âm 
binh, lương thực. Gia đình tiếp tục phải sắm sửa lễ để cúng chiêu âm binh, lương 
thực cho Tam Thanh và đồng thời cho hương hỏa, tổ tiên. Thời gian tùy thuộc vào 
điều kiện của gia đình nhưng không quá một năm sau khi đã khai quang 
tranh.
Sau khi hoàn tất các nghi lễ tạ mả hạ, tạ mả trung, khai 
quang tranh và chiêu hồn lúa, âm binh cho Tam Thanh, khoảng một năm sau, gia 
đình làm lễ tạ mả thượng. Đây là nghi lễ tạ mả lớn nhất và kết 
thúc việc trả ơn cho tổ tiên trong nghi lễ tách, dựng tổ. Quan niệm của đồng bào 
Dao Quần Chẹt thì thực hiện nghi lễ tạ mả thượng xong thì Tổ mới già. Lúc này 
nhà có người chết mới được làm ma khô, nhà có người làm thầy cúng thì mới được 
làm thầy cả, được đem tranh đi làm lễ cấp 
sắc.
Tách tổ, dựng tổ - nghi lễ cứ kế 
tục như vậy trong suốt vòng đời của đồng bào Dao Quần Chẹt từ bao 
đời nay, tạo không gian tâm linh linh thiêng, giữ vị trí cốt lõi, quan 
trọng và bền vững trong đời sống tinh thần của mỗi gia đình, để luôn 
đặt mình trong sự nối tiếp, biết nguồn cội của mình, công lao sinh 
thành, nuôi dưỡng của tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thờ cúng vào các 
dịp: Tết tháng Giêng (luồng khâu), Tết Thanh minh (Sìng mìng), Tết Cầu mùa (pịa 
suun chiền mìu), Tết tháng Bảy (Slíp sắt lả chiệp phẩy), Tết Cơm mới (nhặn 
sthèng hẳng), cúng rượu mới, bánh mới (Sthèng bèo rua, sthèng bèo tíu), Tết hết 
năm (Nhặn nhằng 
chậm).
 Đinh Huyền Trang

Bàn Thờ của người 
Dao
Ở Tuyên Quang, đồng bào Dao Quần Chẹt cư 
trú chủ yếu ở các xã Thanh Phát, Hợp Hoà, Kháng Nhật (huyện Sơn Dương). Phong 
tục tập quán của đồng bào phong phú, đặc sắc và được gìn giữ. Trong 
đời sống văn hóa tinh thần, đồng bào Dao Quần Chẹt coi trọng đạo lý, sống nghĩa 
tình, thể hiện cách ứng xử của mình thông qua các nghi lễ truyền thống như: Nghi 
lễ trong chu kỳ đời người, được thể hiện qua những tập tục trong sinh đẻ và nuôi 
dạy con, lễ cấp sắc nghi lễ cưới xin, ma chay. Đặc biệt là các nghi lễ tín 
ngưỡng liên quan đến thờ cúng tổ tiên luôn được đồng bào duy trì, thể hiện qua 
tục lệ tách tổ, dựng tổ mới.
Cây lớn thì phải chia cành, con lớn 
thì phải chia tổ, đó là quan niệm của đồng bào Dao Quần Chẹt. Trong 
chu kỳ đời người, đồng bào Dao Quần Chẹt phải thực hiện nghi lễ 
tách,dựng tổ. Con cái trưởng thành thì phải tách tổ để dựng tổ mới. Tổ mới 
được tách từ tổ già, nhưng chỉ được tách tổ khi nhà bố mẹ đã hoàn tất các nghi 
lễ vun tổ, tế mộ tổ, đã có tranh thờ..., gia đình đã cưới vợ cho con trai trưởng 
và các con thứ, đã làm lễ cấp sắc cho con trai. Gia đình sẽ bàn bạc để quyết 
định cho người con nào ra ở riêng, không nhất thiết phải là con trưởng hay con 
thứ, tiếp sau đó các con lần lượt đều phải tách tổ. Khi đã thống nhất, gia 
đình dự định thời gian và nhờ thầy cúng xem ngày tốt để tách tổ và dựng tổ 
mới.
Để thực hiện nghi lễ tách tổ, gia 
đình phải mời thầy cúng xin tổ tiên, hương hỏa chấp thuận cho tách tổ, che 
chở bảo vệ cho con cháu được yên lành. Cúng xong, người con trai được tách tổ 
lấy một ít tro bếp ở nhà bố mẹ vào bát hương đem về dâng lên bàn thờ nhà mới 
để thờ 
cúng.
Sau đó, gia đình thực hiện nghi lễ 
dựng tổ mới. Đây là nghi lễ cúng báo với tổ tiên việc đã làm xong lễ 
tách tổ, nay dựng tổ mới, cầu xin tổ tiên chấp 
thuận.
Cúng dựng tổ xong, gia đình lập một bàn thờ 
ở dưới bếp để cúng mời thần bếp về an vị, cai quản việc bếp núc, lễ cúng 
có 1 con 
gà.
 Tiếp theo, lễ cúng vun tổ được thực 
hiện sau khoảng một năm, khi đã hoàn tất việc tách, dựng tổ mới. Lễ 
cúng thực hiện để xin tổ tiên phù hộ cho con cháu ngày càng vun tổ lớn. Sau 1 
đến 2 năm, gia đình tiếp tục làm lễ hứa và trả lễ cho tổ tiên, hương hỏa. 
Nghi lễ này được gọi là hấu nhụn hào sthúng nhụn, thực hiện nghi lễ với mục đích 
để tiếp tục vun tổ lớn hơn. Làm lễ này phải qua các nghi lễ mà theo đồng 
bào gọi là hấu nhụn, pang nhụn, bủa nhụn và xé nhụn, các lễ này có thể làm 
trong tháng nào tuỳ điều kiện từng gia đình nhưng phải làm trong 1 năm, trong 
các lễ này chỉ dâng hương, nước và xin khất lễ mặn, lễ mặn được hứa 
khất tượng trưng vào  nhụn, đến khi vun tổ xong sẽ dâng vào lễ cúng xé 
nhụn.
Hấu nhụn là lễ cúng hương hoả và tổ tiên, 
xin phù hộ cho gia đình và hứa sẽ trả lễ cho Tam Thanh và Tổ tiên. Pang nhụn là 
nghi lễ cúng tổ tiên xin phù hộ cho gia đình và hứa sẽ trả lễ thêm tiền bạc, mục 
đích để vun tổ lớn thêm. Bủa nhụn nhằm mục đích vun tổ, khai quang tranh. Khi 
thực hiện lễ này, gia đình đã được có 1 bộ tranh thờ, đồng bào gọi tranh 
thờ là sò phảng, tượng trưng cho hương hoả chung của người Dao: 1 tranh là 
Tam Thanh nhỏ, 1 tranh là Bàn Vương). Sau khi khai quang tranh, gia đình làm lễ 
cảm tạ tổ tiên, hương hoả đã cho gia đình vun tổ được lớn dần và kết thúc 
bằng lễ vun tổ lớn (mạng 
noi).
Xé nhụn là nghi lễ được thực hiện khi đã 
kết thúc các lễ vun tổ và cúng hứa khất trả lễ cho tổ tiên, hương hỏa. Gia đình 
tháo gỡ các nhụn của các lần cúng khất, sau đó phải có lễ đủ như đã hứa là lợn, 
rượu, tiền bạc... để cúng cho tổ tiên và hương hoả. Cúng xong hoá tiền vàng và 
xé nhụn đi, coi như đã trả xong lễ đã 
hứa.
Sau khi thực hiện các nghi lễ trên, gia 
đình làm lễ tạ mả tổ. Xuất phát từ tập quán du canh du cư trước đây, mỗi 
khi chuyển nơi ở mới đồng bào không bốc mộ đi theo, do vậy ở nơi ở mới được đồng 
bào phân kỳ để thờ cúng tổ tiên thành ba đời: thượng, trung, hạ và thực hiện các 
lễ tạ mả hạ, trung, thượng. Lễ tạ mả phải làm một khu mộ tượng trưng cho mộ tổ 
tiên qua các đời để cúng tạ ơn. Sau khi làm lễ tạ mả hạ, mả trung, gia đình đã 
được phép có 2 bộ tranh thờ. Việc khai quang tranh là nghi lễ bắt buộc bởi vì 
theo quan niệm của đồng bào Dao Quần Chẹt, khi đã được phép có tranh thờ tức là 
trong nhà đã có thần thánh che chở. Tranh thờ thể hiện sự linh thiêng, do vậy 
phải có nghi lễ để làm cho tranh được soi sáng. Nghi lễ khai quang tranh thường 
được làm sau lễ tạ mả trung khoảng từ một đến hai năm. Gia đình có con trai đến 
tuổi làm lễ cấp sắc có thể kết hợp cấp sắc trong lễ khai quang tranh. Khi gia 
đình đã khai quang tranh là đã được phép thờ Tam Thanh, do vậy cần phải có âm 
binh, lương thực. Gia đình tiếp tục phải sắm sửa lễ để cúng chiêu âm binh, lương 
thực cho Tam Thanh và đồng thời cho hương hỏa, tổ tiên. Thời gian tùy thuộc vào 
điều kiện của gia đình nhưng không quá một năm sau khi đã khai quang 
tranh.
Sau khi hoàn tất các nghi lễ tạ mả hạ, tạ mả trung, khai 
quang tranh và chiêu hồn lúa, âm binh cho Tam Thanh, khoảng một năm sau, gia 
đình làm lễ tạ mả thượng. Đây là nghi lễ tạ mả lớn nhất và kết 
thúc việc trả ơn cho tổ tiên trong nghi lễ tách, dựng tổ. Quan niệm của đồng bào 
Dao Quần Chẹt thì thực hiện nghi lễ tạ mả thượng xong thì Tổ mới già. Lúc này 
nhà có người chết mới được làm ma khô, nhà có người làm thầy cúng thì mới được 
làm thầy cả, được đem tranh đi làm lễ cấp 
sắc.
Tách tổ, dựng tổ - nghi lễ cứ kế 
tục như vậy trong suốt vòng đời của đồng bào Dao Quần Chẹt từ bao 
đời nay, tạo không gian tâm linh linh thiêng, giữ vị trí cốt lõi, quan 
trọng và bền vững trong đời sống tinh thần của mỗi gia đình, để luôn 
đặt mình trong sự nối tiếp, biết nguồn cội của mình, công lao sinh 
thành, nuôi dưỡng của tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thờ cúng vào các 
dịp: Tết tháng Giêng (luồng khâu), Tết Thanh minh (Sìng mìng), Tết Cầu mùa (pịa 
suun chiền mìu), Tết tháng Bảy (Slíp sắt lả chiệp phẩy), Tết Cơm mới (nhặn 
sthèng hẳng), cúng rượu mới, bánh mới (Sthèng bèo rua, sthèng bèo tíu), Tết hết 
năm (Nhặn nhằng 
chậm).
 Đinh Huyền 
Trang





