This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Bản sắc văn hóa người Dao ở Lãng Công (Bạch Nga)


Thôn Thành Công (xã Lãng Công, Sông Lô) là địa phương duy nhất trong tỉnh có đồng bào dân tộc Dao sinh sống. Trong xu thế hội nhập, giao thoa nền văn hóa, đồng bào dân tộc Dao nơi đây luôn có ý thức giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
Theo tục lệ, cứ vào các ngày mùng: 3/3; 8/4; 6/6 âm lịch hàng năm, đồng bào Dao ở Lãng Công lại làm các món xôi đen, xôi đỏ, xôi tím, bánh dùng rồi đem ra miếu thờ. Ngoài số xôi, bánh để thờ thần Núi, người dân còn làm thêm xôi, bánh để đem biếu gia đình nhà ngoại. Theo ông Trưởng bản Đặng Văn Sinh, các loại xôi có màu sắc khác lạ ở Thành Công được chế biến từ gạo nếp trộn với nước lá xôi đỏ, tím, đen giã nhuyễn. Xôi dẻo vừa độ, thơm ngon và trông rất đẹp mắt.

Ngoài lễ thờ thần Núi, người Dao ở Lãng Công còn được biết đến bởi những tập tục cổ truyền độc đáo như: Lễ cúng tổ tiên, cưới hỏi, ma chay, lễ cấp sắc, lễ đầy tháng con, Tết nhảy… Đây là những phong tục mang đậm bản sắc dân tộc Dao, được truyền từ đời này qua đời khác. Nói về gốc tích người Dao nơi đây, ông Đặng Văn Sinh nói: “Người Dao ở đây vốn dĩ có nguồn gốc từ Hòa Bình, di cư tới đây từ vài trăm năm trước. Hai người có công khai thiên lập địa ở chốn này là ông cụ tổ họ Đặng và cụ tổ họ Dương. Để tưởng nhớ tổ tiên, đồng bào người Dao đã lập miếu thờ ở sau Núi. Mỗi dịp lễ, Tết đều thực hiện cúng bái theo nghi thức để tưởng nhớ công ơn, cầu xin mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.”

Một trong những phong tục độc đáo nhất của người Dao ở Lãng Công là tục lệ cấp sắc. Lễ cấp sắc được tiến hành khi người con trai (hoặc con gái) đã đến độ tuổi trưởng thành và đã kết hôn. Các nghi thức cúng bái được tiến hành bởi 7 người thầy cúng, được coi là 7 ông bố đỡ đầu, đưa người được cấp sắc lên thiên đình làm lễ cấp sắc. Ngoài ra, cần có 20 người phục vụ cúng trong 3 ngày 2 đêm. Lễ vật tối thiểu bao gồm: 4 con lợn và 10 con gà. Sau khi làm lễ, người được cấp sắc sẽ được ban một tên âm. Tên này được con cháu sử dụng để thờ cúng người được cấp sắc khi về già.

  Đồng bào dân tộc Dao xưa kia có rất nhiều phong tục truyền thống song một số phong tục không phù hợp đã bị mai một theo thời gian. Bên cạnh đó, nhiều phong tục vẫn trường tồn với thời gian, giữ được bản sắc riêng độc đáo. Một trong những phong tục độc đáo của người Dao ở Lãng Công đó là tục cưới hỏi. Ông Hùng cho biết: “Các đôi trai gái được tự do tìm hiểu. Khi đã đồng ý kết tóc se duyên, nhà trai sẽ mang đôi gà trống sang nhà gái làm lễ niên canh, xin ngày sinh tháng đẻ của cô gái rồi về nhà làm lễ cúng tổ tiên. Trong lễ cúng tổ tiên, gia đình nhà trai sẽ hỏi thầy cúng xem chàng trai và cô gái có hợp tuổi nhau không. Nếu hợp tuổi, đôi trai gái sẽ được gia đình hai bên cho làm lễ đính ước. Trong lễ đính ước, nhà trai sẽ đưa nhà gái 2 đồng bạc gói trong miếng vải đỏ. Trong vòng 1 tháng, nếu nhà gái không trả lại 2 đồng bạc thì nhà trai tiếp tục làm lễ sách đỏ, quyết định ngày cưới. Trong ngày cưới, cô dâu phải mặc bộ áo cưới truyền thống do chính tay mình tự thêu hoặc do mẹ đẻ thêu. Điều đặc biệt là khác với người Kinh, chú rể người Dao sẽ không sang nhà gái rước dâu. Khi đoàn nhà trai đón cô dâu về đến cổng, chú rể và bố mẹ mình sẽ lánh mặt để tránh xung đột giữa mẹ chồng và nàng dâu sau này. Sau khi cô dâu được dẫn vào buồng ngủ, chú rể mới vào vén khăn che mặt, dẫn cô dâu ra trước bàn thờ tổ tiên làm lễ tơ hồng, uống rượu giao bôi. Ngày hôm sau, nhà trai đem lễ vật sang nhà gái làm lễ lại mặt. Chú rể phải mang tiền lẻ để phát vốn cho anh em nhà gái. Cũng trong buổi lại mặt, nhà gái phải làm ít nhất 6 chiếc bánh chưng biếu nhà trai mang về làm quà.

Cùng với việc giữ gìn những phong tục truyền thống độc đáo của dân tộc, người Dao ở Lãng Công luôn chủ động tiếp thu những nét đẹp văn hóa của các dân tộc khác, góp phần vào việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về "Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc".


Bạch Nga

Thôn Thành Công (xã Lãng Công, Sông Lô) là địa phương duy nhất trong tỉnh có đồng bào dân tộc Dao sinh sống. Trong xu thế hội nhập, giao thoa nền văn hóa, đồng bào dân tộc Dao nơi đây luôn có ý thức giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
Theo tục lệ, cứ vào các ngày mùng: 3/3; 8/4; 6/6 âm lịch hàng năm, đồng bào Dao ở Lãng Công lại làm các món xôi đen, xôi đỏ, xôi tím, bánh dùng rồi đem ra miếu thờ. Ngoài số xôi, bánh để thờ thần Núi, người dân còn làm thêm xôi, bánh để đem biếu gia đình nhà ngoại. Theo ông Trưởng bản Đặng Văn Sinh, các loại xôi có màu sắc khác lạ ở Thành Công được chế biến từ gạo nếp trộn với nước lá xôi đỏ, tím, đen giã nhuyễn. Xôi dẻo vừa độ, thơm ngon và trông rất đẹp mắt.

Ngoài lễ thờ thần Núi, người Dao ở Lãng Công còn được biết đến bởi những tập tục cổ truyền độc đáo như: Lễ cúng tổ tiên, cưới hỏi, ma chay, lễ cấp sắc, lễ đầy tháng con, Tết nhảy… Đây là những phong tục mang đậm bản sắc dân tộc Dao, được truyền từ đời này qua đời khác. Nói về gốc tích người Dao nơi đây, ông Đặng Văn Sinh nói: “Người Dao ở đây vốn dĩ có nguồn gốc từ Hòa Bình, di cư tới đây từ vài trăm năm trước. Hai người có công khai thiên lập địa ở chốn này là ông cụ tổ họ Đặng và cụ tổ họ Dương. Để tưởng nhớ tổ tiên, đồng bào người Dao đã lập miếu thờ ở sau Núi. Mỗi dịp lễ, Tết đều thực hiện cúng bái theo nghi thức để tưởng nhớ công ơn, cầu xin mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.”

Một trong những phong tục độc đáo nhất của người Dao ở Lãng Công là tục lệ cấp sắc. Lễ cấp sắc được tiến hành khi người con trai (hoặc con gái) đã đến độ tuổi trưởng thành và đã kết hôn. Các nghi thức cúng bái được tiến hành bởi 7 người thầy cúng, được coi là 7 ông bố đỡ đầu, đưa người được cấp sắc lên thiên đình làm lễ cấp sắc. Ngoài ra, cần có 20 người phục vụ cúng trong 3 ngày 2 đêm. Lễ vật tối thiểu bao gồm: 4 con lợn và 10 con gà. Sau khi làm lễ, người được cấp sắc sẽ được ban một tên âm. Tên này được con cháu sử dụng để thờ cúng người được cấp sắc khi về già.

  Đồng bào dân tộc Dao xưa kia có rất nhiều phong tục truyền thống song một số phong tục không phù hợp đã bị mai một theo thời gian. Bên cạnh đó, nhiều phong tục vẫn trường tồn với thời gian, giữ được bản sắc riêng độc đáo. Một trong những phong tục độc đáo của người Dao ở Lãng Công đó là tục cưới hỏi. Ông Hùng cho biết: “Các đôi trai gái được tự do tìm hiểu. Khi đã đồng ý kết tóc se duyên, nhà trai sẽ mang đôi gà trống sang nhà gái làm lễ niên canh, xin ngày sinh tháng đẻ của cô gái rồi về nhà làm lễ cúng tổ tiên. Trong lễ cúng tổ tiên, gia đình nhà trai sẽ hỏi thầy cúng xem chàng trai và cô gái có hợp tuổi nhau không. Nếu hợp tuổi, đôi trai gái sẽ được gia đình hai bên cho làm lễ đính ước. Trong lễ đính ước, nhà trai sẽ đưa nhà gái 2 đồng bạc gói trong miếng vải đỏ. Trong vòng 1 tháng, nếu nhà gái không trả lại 2 đồng bạc thì nhà trai tiếp tục làm lễ sách đỏ, quyết định ngày cưới. Trong ngày cưới, cô dâu phải mặc bộ áo cưới truyền thống do chính tay mình tự thêu hoặc do mẹ đẻ thêu. Điều đặc biệt là khác với người Kinh, chú rể người Dao sẽ không sang nhà gái rước dâu. Khi đoàn nhà trai đón cô dâu về đến cổng, chú rể và bố mẹ mình sẽ lánh mặt để tránh xung đột giữa mẹ chồng và nàng dâu sau này. Sau khi cô dâu được dẫn vào buồng ngủ, chú rể mới vào vén khăn che mặt, dẫn cô dâu ra trước bàn thờ tổ tiên làm lễ tơ hồng, uống rượu giao bôi. Ngày hôm sau, nhà trai đem lễ vật sang nhà gái làm lễ lại mặt. Chú rể phải mang tiền lẻ để phát vốn cho anh em nhà gái. Cũng trong buổi lại mặt, nhà gái phải làm ít nhất 6 chiếc bánh chưng biếu nhà trai mang về làm quà.

Cùng với việc giữ gìn những phong tục truyền thống độc đáo của dân tộc, người Dao ở Lãng Công luôn chủ động tiếp thu những nét đẹp văn hóa của các dân tộc khác, góp phần vào việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về "Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc".

Bạch Nga

Tục cưới hỏi của người Dao ở Điện biên (Hoàng Hải)

Lễ cưới hỏi của người Dao, Điện Biên Ở tỉnh Điện Biên, dân tộc Dao (hay có nơi còn phiên âm là Dạo) sống nhiều tại địa bàn huyện Tủa Chùa, gồm 2 loại: Dao tiền và Dao quần chẹt (chặt). Nhà ở của người Dao làm theo kiểu nhà sàn hoặc nhà trệt nhưng phổ biến nhất là kiểu nhà nửa sàn nửa trệt, nơi có sàn sẽ làm chỗ ngủ với quan niệm cách rời mặt đất sạch sẽ, thoáng mát có lợi cho sức khỏe. Ngày xưa, theo truyền thống bố mẹ chọn vợ,
gả chồng cho con cái không như bây giờ thanh niên nam, nữ Dao được tự do tìm hiểu, lựa chọn bạn đời. Một phong tục độc đáo của người Dao là khi không có con trai thừa kế họ sẽ chọn người con rể lấy con gái đầu thay thế và được thừa hưởng tài sản, quyền lợi bình đẳng với những người con khác. Lễ vật khi đi hỏi vợ của chàng trai Dao bao gồm 2 bi (điếu) thuốc lào, 1 đồng bạc, 2 đồng xu và 2 hào bạc. Trong truyền thống giao tiếp của người Dao, thuốc lào là thứ bắt buộc phải có, mở đầu cho cuộc nói chuyện, lời cảm ơn, xin lỗi, nhờ vả (tương tự như miếng trầu của người Kinh - “Miếng trầu là đầu câu chuyện”). Trong lễ ăn hỏi, thuốc lào là lễ vật dành cho bố mẹ vợ, khi bố mẹ cô gái đã nhận bi thuốc lào nghĩa là đã đồng ý chấp nhận chàng trai tìm hiểu con gái mình. Chàng trai sẽ đưa tiếp 2 đồng xu, 2 hào bạc để hỏi tên tuổi cô gái cũng như giới thiệu về bản thân. Trước đây, khi diễn ra lễ ăn hỏi người Dao chia thành 3 mức giá tùy thuộc vào cấp độ giàu nghèo của nhà gái để thách cưới nhà trai: nhà giàu tương ứng với 42 lạng bạc (cân tiểu ly), trung bình: 31 lạng, nghèo: 24 lạng. Mỗi mức giá cũng tương đương với giá trị của hồi môn do nhà gái cho cô dâu mang về nhà chồng. Ngày cưới nhà trai phải nhờ những người làm mối dắt theo một con lợn 60kg sang nhà gái nhưng không bắt buộc phải đủ trọng lượng 60kg, có thể thừa hoặc thiếu nhà gái cũng không bắt phạt nhưng không được quá 5kg. Đoàn người mối có 8 người: 5 nam, 3 nữ trong đó gồm: chủ hôn, người đối rượu, người đối hát và 2 người giúp việc. Trong đoàn người mối bắt buộc phải có 2 cô gái trẻ (chưa chồng) những người còn lại phải đã lập gia đình và hơn tuổi cô dâu chú rể. Trong lễ cưới người Dao, vui nhất là phần hát đối, hát ví giữa nhà trai và nhà gái. Họ nhà gái sẽ hát trước ví von cô gái như một công chúa cành vàng lá ngọc, nhà trai đến đây có việc gì phải xin phép những “vệ sĩ” bảo vệ bên ngoài để được gặp cha mẹ cô gái... Đại diện nhà trai khi ấy sẽ hát trả lời rằng: chàng trai là một người tài giỏi, khôn ngoan, lên rừng, xuống suối làm ăn đều thông thạo đã nhờ mối tìm hiểu cô gái và được cha mẹ cô gái chấp thuận, hôm nay đến xin phép đón về nhà làm dâu. Cuộc thi hát đối sẽ diễn ra sôi nổi trong suốt ngày cưới, người hát đối bên nhà trai không được thua, người đối rượu cũng không được kém người mời rượu bên nhà gái. Một phần sôi động không kém thi hát đối là khi nhà trai đón dâu về, bà con dân bản sẽ dùng những ống nứa nhỏ cắt bỏ 2 đầu, vót que tre làm lõi thông bên trong gọi là “tùng băng” (nghĩa là súng băng) sau đó lấy giấy thấm nước vo viên lại nhét vào làm “đạn” để bắn vào họ nhà trai. Mặc dù những “viên đạn” giấy khiến cho mình mẩy đau rát nhưng người Dao quan niệm rằng như vậy đôi trai gái mới sống vui vẻ, hòa thuận hạnh phúc đến đầu bạc răng long.

Hoàng Hải
Lễ cưới hỏi của người Dao, Điện Biên Ở tỉnh Điện Biên, dân tộc Dao (hay có nơi còn phiên âm là Dạo) sống nhiều tại địa bàn huyện Tủa Chùa, gồm 2 loại: Dao tiền và Dao quần chẹt (chặt). Nhà ở của người Dao làm theo kiểu nhà sàn hoặc nhà trệt nhưng phổ biến nhất là kiểu nhà nửa sàn nửa trệt, nơi có sàn sẽ làm chỗ ngủ với quan niệm cách rời mặt đất sạch sẽ, thoáng mát có lợi cho sức khỏe. Ngày xưa, theo truyền thống bố mẹ chọn vợ,
gả chồng cho con cái không như bây giờ thanh niên nam, nữ Dao được tự do tìm hiểu, lựa chọn bạn đời. Một phong tục độc đáo của người Dao là khi không có con trai thừa kế họ sẽ chọn người con rể lấy con gái đầu thay thế và được thừa hưởng tài sản, quyền lợi bình đẳng với những người con khác. Lễ vật khi đi hỏi vợ của chàng trai Dao bao gồm 2 bi (điếu) thuốc lào, 1 đồng bạc, 2 đồng xu và 2 hào bạc. Trong truyền thống giao tiếp của người Dao, thuốc lào là thứ bắt buộc phải có, mở đầu cho cuộc nói chuyện, lời cảm ơn, xin lỗi, nhờ vả (tương tự như miếng trầu của người Kinh - “Miếng trầu là đầu câu chuyện”). Trong lễ ăn hỏi, thuốc lào là lễ vật dành cho bố mẹ vợ, khi bố mẹ cô gái đã nhận bi thuốc lào nghĩa là đã đồng ý chấp nhận chàng trai tìm hiểu con gái mình. Chàng trai sẽ đưa tiếp 2 đồng xu, 2 hào bạc để hỏi tên tuổi cô gái cũng như giới thiệu về bản thân. Trước đây, khi diễn ra lễ ăn hỏi người Dao chia thành 3 mức giá tùy thuộc vào cấp độ giàu nghèo của nhà gái để thách cưới nhà trai: nhà giàu tương ứng với 42 lạng bạc (cân tiểu ly), trung bình: 31 lạng, nghèo: 24 lạng. Mỗi mức giá cũng tương đương với giá trị của hồi môn do nhà gái cho cô dâu mang về nhà chồng. Ngày cưới nhà trai phải nhờ những người làm mối dắt theo một con lợn 60kg sang nhà gái nhưng không bắt buộc phải đủ trọng lượng 60kg, có thể thừa hoặc thiếu nhà gái cũng không bắt phạt nhưng không được quá 5kg. Đoàn người mối có 8 người: 5 nam, 3 nữ trong đó gồm: chủ hôn, người đối rượu, người đối hát và 2 người giúp việc. Trong đoàn người mối bắt buộc phải có 2 cô gái trẻ (chưa chồng) những người còn lại phải đã lập gia đình và hơn tuổi cô dâu chú rể. Trong lễ cưới người Dao, vui nhất là phần hát đối, hát ví giữa nhà trai và nhà gái. Họ nhà gái sẽ hát trước ví von cô gái như một công chúa cành vàng lá ngọc, nhà trai đến đây có việc gì phải xin phép những “vệ sĩ” bảo vệ bên ngoài để được gặp cha mẹ cô gái... Đại diện nhà trai khi ấy sẽ hát trả lời rằng: chàng trai là một người tài giỏi, khôn ngoan, lên rừng, xuống suối làm ăn đều thông thạo đã nhờ mối tìm hiểu cô gái và được cha mẹ cô gái chấp thuận, hôm nay đến xin phép đón về nhà làm dâu. Cuộc thi hát đối sẽ diễn ra sôi nổi trong suốt ngày cưới, người hát đối bên nhà trai không được thua, người đối rượu cũng không được kém người mời rượu bên nhà gái. Một phần sôi động không kém thi hát đối là khi nhà trai đón dâu về, bà con dân bản sẽ dùng những ống nứa nhỏ cắt bỏ 2 đầu, vót que tre làm lõi thông bên trong gọi là “tùng băng” (nghĩa là súng băng) sau đó lấy giấy thấm nước vo viên lại nhét vào làm “đạn” để bắn vào họ nhà trai. Mặc dù những “viên đạn” giấy khiến cho mình mẩy đau rát nhưng người Dao quan niệm rằng như vậy đôi trai gái mới sống vui vẻ, hòa thuận hạnh phúc đến đầu bạc răng long.

Hoàng Hải

Người Dao Quần Chẹt đón Tết Nhảy (Vân Nam)

Hàng năm cứ mỗi độ đông về, cánh mai rừng nở rộ là người dân tộc Dao Quần Chẹt đón một năm mới, một Tết Nhảy mới mang đậm bản sắc dân tộc.
Cách thành phố Hòa Bình chừng 15km, thẳng theo hướng Đà Bắc ta bắt gặp khu du canh, du cư của người dân tộc Dao Quần Chẹt. Chúng tôi đến xóm Rãnh, xã Toàn Sơn huyện Đà Bắc vào đúng dịp giáp Tết Nguyên đán Kỷ Sửu. Không khí đón Tết của người dân tộc nơi đây đã rộ lên bởi tiếng cồng, tiếng chiêng cùng với tiếng xập xèng đã vang vang trong bản. Bởi hàng năm cứ đến ngày 15.12 âm lịch là người Dao Quần Chẹt dù làm ăn ở đâu xa cũng phải về để “hậu tạ” tổ tiên và chuẩn bị làm lễ “ hứa” đầu năm mới. Già làng đi thông báo với bà con xóm bản chuẩn bị ăn Tết tập thể.

Theo phong tục thì họ ăn Tết trước người Kinh nửa tháng và vui Tết đến hết rằm tháng riêng (15.1 âm lịch). Công việc đón Tết của người Dao Quần Chẹt từ ngày 15.12 âm lịch. Họ sửa sang thay mới ban thờ, làm bánh ống (gói bằng lá quận chặt hai đầu) và làm bánh dầy. Lễ “hứa” đầu năm là một thủ lợn tượng trưng cho con lợn khoảng ( 10 - 15kg), 5 chiếc bánh dầy hoặc bánh ống, nhà nào không có lợn thì thịt một con vịt hoặc 3 con gà đặt lên ban thờ cúng tổ tiên để cầu lộc, cầu tài và gánh vác mọi công việc như: tai hoạ, trừ tà ác...

Ban thờ đặt đúng góc tường của gian ngoài (gian cửa chính), chính giữa ban thờ có một bát hương và 2 bức tranh dán trên tường, tượng trưng cho tổ tiên theo từng thứ bậc trông thật giản dị, như chính cuộc sống của họ. Mỗi khi thắp hương cúng tổ tiên người Dao Quần Chẹt đem chiếc ghế gỗ ra để các vật thờ lên đó, theo phong tục ngày Tết họ chỉ cúng thịt và bánh, không cúng cơm như người Kinh. Năm mới, họ luộc trứng gà để sẵn trong nhà, mỗi khi trẻ con đến chơi thì họ mang ra mừng tuổi...

Trong một năm, người Dao Quần Chẹt ăn rất nhiều Tết như: Tết Nguyên tiêu (rằm tháng Giêng), Tết Hàn thực (3.3 âm lịch), Tết Đoan ngọ (5.5 âm lịch), song Tết Nhảy và Tết Nguyên đán vẫn là lớn nhất. Vì Tết Nhảy là một trong lễ Tết có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống cộng đồng của người dân tộc Dao Quần Chẹt và cũng là Tết “tẩy oan“, Tết “cầu may”, “cầu phúc”.

Thông thường họ tổ chức Tết nhảy theo từng thế hệ. Ví dụ, năm nay có họ làm Tết Nhảy xong, sau đó phải làm lễ “hứa” với tổ tiên vào khoảng một thời gian nhất định nào đó (10 - 15 năm) sẽ tổ chức lại. Ông Dương Đức Phong 50 tuổi ở xóm Rãnh xã Toàn Sơn huyện Đà Bắc đang cùng dòng họ và gia đình làm lễ Nhảy, cho biết: “Cách đây 5 năm, họ Dương nhà tôi đã làm lễ Nhảy rồi và hứa với tổ tiên là 5 năm sau lặp lại. Năm 2009 này là năm họ nhà tôi phải trả lễ. Nhưng có điều trong bản không phải họ nào cũng có Tết Nhảy. Vì tôi nghe các cụ kể lại rằng, từ thời xa xưa người Dao Quần Chẹt đi từ phía Bắc vượt biển vào đất liền; một số thuyền gặp gió bão, họ phải nhảy lên bờ để xin thần linh cứu giúp. Và có họ thì “hứa” làm Tết Nhảy như họ Dương, họ Bàn, họ Đặng, họ Triệu (có Triệu Xanh, Triệu Đỏ, Triệu Nhỏ), còn lại một số họ thì “hứa” làm “Đám Chay” như họ Triệu Gói, Triệu Đại, Triệu Mốc...”.

Theo quan niệm của người Dao Quần Chẹt, trong cuộc sống con người phải trải qua nhiều trắc trở, rủi ro, hàng năm phải khấn trời đất, thần linh, tổ tiên để được cứu giúp, trừ giải những oan trái, bất hạnh, ban cho những điều may mắn, hạnh phúc!

Tết Nhảy thường diễn ra từ 23 tháng chạp cho đến 27 - 28 Tết Nguyên đán (kéo dài 5 - 7 ngày đêm liền). Để chuẩn bị cho Tết Nhảy, gia đình phải mời thầy về để thiết lập ban thờ, bày biện đồ cúng, khấn mời Bàn vương, thần thánh, tổ tiên về dự lễ và tổ chức cho con cháu học nhảy và đọc sách (Sài Dung).

Tết Nhảy là Tết của gia đình nhưng lại được cả bản, cả vùng coi như Tết chung. Tất cả đều đến tham gia múa nhiều điệu múa truyền thống như múa cờ, múa tế rùa, múa kiếm, múa chuông... Trước ban thờ Bàn vương, ông thầy múa đi trước, theo sau là một tốp thanh niên (khoảng 10 người) nối tiếp nhau vừa đi, vừa diễn tả các động tác múa minh họa, cùng với tiếng trống, tiếng cồng, tiếng chiêng và tiếng hú, tiếng hò vang tạo thành không khí tưng bừng, nhộn nhịp làm rung động cả vùng núi rừng Đà Bắc. Trong suốt thời gian nhảy, chủ nhà mổ lợn, gói bánh để đãi khách. Họ vừa cúng, vừa uống rượu, ăn cỗ, múa hát thay phiên nhau liên tục trong nhiều ngày...

Đây quả thật là lễ hội đã góp phần tô điểm cho đời sống văn hóa ở vùng núi cao Hòa Bình thêm phong phú và đa dạng.
Vân Nam
Hàng năm cứ mỗi độ đông về, cánh mai rừng nở rộ là người dân tộc Dao Quần Chẹt đón một năm mới, một Tết Nhảy mới mang đậm bản sắc dân tộc.
Cách thành phố Hòa Bình chừng 15km, thẳng theo hướng Đà Bắc ta bắt gặp khu du canh, du cư của người dân tộc Dao Quần Chẹt. Chúng tôi đến xóm Rãnh, xã Toàn Sơn huyện Đà Bắc vào đúng dịp giáp Tết Nguyên đán Kỷ Sửu. Không khí đón Tết của người dân tộc nơi đây đã rộ lên bởi tiếng cồng, tiếng chiêng cùng với tiếng xập xèng đã vang vang trong bản. Bởi hàng năm cứ đến ngày 15.12 âm lịch là người Dao Quần Chẹt dù làm ăn ở đâu xa cũng phải về để “hậu tạ” tổ tiên và chuẩn bị làm lễ “ hứa” đầu năm mới. Già làng đi thông báo với bà con xóm bản chuẩn bị ăn Tết tập thể.

Theo phong tục thì họ ăn Tết trước người Kinh nửa tháng và vui Tết đến hết rằm tháng riêng (15.1 âm lịch). Công việc đón Tết của người Dao Quần Chẹt từ ngày 15.12 âm lịch. Họ sửa sang thay mới ban thờ, làm bánh ống (gói bằng lá quận chặt hai đầu) và làm bánh dầy. Lễ “hứa” đầu năm là một thủ lợn tượng trưng cho con lợn khoảng ( 10 - 15kg), 5 chiếc bánh dầy hoặc bánh ống, nhà nào không có lợn thì thịt một con vịt hoặc 3 con gà đặt lên ban thờ cúng tổ tiên để cầu lộc, cầu tài và gánh vác mọi công việc như: tai hoạ, trừ tà ác...

Ban thờ đặt đúng góc tường của gian ngoài (gian cửa chính), chính giữa ban thờ có một bát hương và 2 bức tranh dán trên tường, tượng trưng cho tổ tiên theo từng thứ bậc trông thật giản dị, như chính cuộc sống của họ. Mỗi khi thắp hương cúng tổ tiên người Dao Quần Chẹt đem chiếc ghế gỗ ra để các vật thờ lên đó, theo phong tục ngày Tết họ chỉ cúng thịt và bánh, không cúng cơm như người Kinh. Năm mới, họ luộc trứng gà để sẵn trong nhà, mỗi khi trẻ con đến chơi thì họ mang ra mừng tuổi...

Trong một năm, người Dao Quần Chẹt ăn rất nhiều Tết như: Tết Nguyên tiêu (rằm tháng Giêng), Tết Hàn thực (3.3 âm lịch), Tết Đoan ngọ (5.5 âm lịch), song Tết Nhảy và Tết Nguyên đán vẫn là lớn nhất. Vì Tết Nhảy là một trong lễ Tết có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống cộng đồng của người dân tộc Dao Quần Chẹt và cũng là Tết “tẩy oan“, Tết “cầu may”, “cầu phúc”.

Thông thường họ tổ chức Tết nhảy theo từng thế hệ. Ví dụ, năm nay có họ làm Tết Nhảy xong, sau đó phải làm lễ “hứa” với tổ tiên vào khoảng một thời gian nhất định nào đó (10 - 15 năm) sẽ tổ chức lại. Ông Dương Đức Phong 50 tuổi ở xóm Rãnh xã Toàn Sơn huyện Đà Bắc đang cùng dòng họ và gia đình làm lễ Nhảy, cho biết: “Cách đây 5 năm, họ Dương nhà tôi đã làm lễ Nhảy rồi và hứa với tổ tiên là 5 năm sau lặp lại. Năm 2009 này là năm họ nhà tôi phải trả lễ. Nhưng có điều trong bản không phải họ nào cũng có Tết Nhảy. Vì tôi nghe các cụ kể lại rằng, từ thời xa xưa người Dao Quần Chẹt đi từ phía Bắc vượt biển vào đất liền; một số thuyền gặp gió bão, họ phải nhảy lên bờ để xin thần linh cứu giúp. Và có họ thì “hứa” làm Tết Nhảy như họ Dương, họ Bàn, họ Đặng, họ Triệu (có Triệu Xanh, Triệu Đỏ, Triệu Nhỏ), còn lại một số họ thì “hứa” làm “Đám Chay” như họ Triệu Gói, Triệu Đại, Triệu Mốc...”.

Theo quan niệm của người Dao Quần Chẹt, trong cuộc sống con người phải trải qua nhiều trắc trở, rủi ro, hàng năm phải khấn trời đất, thần linh, tổ tiên để được cứu giúp, trừ giải những oan trái, bất hạnh, ban cho những điều may mắn, hạnh phúc!

Tết Nhảy thường diễn ra từ 23 tháng chạp cho đến 27 - 28 Tết Nguyên đán (kéo dài 5 - 7 ngày đêm liền). Để chuẩn bị cho Tết Nhảy, gia đình phải mời thầy về để thiết lập ban thờ, bày biện đồ cúng, khấn mời Bàn vương, thần thánh, tổ tiên về dự lễ và tổ chức cho con cháu học nhảy và đọc sách (Sài Dung).

Tết Nhảy là Tết của gia đình nhưng lại được cả bản, cả vùng coi như Tết chung. Tất cả đều đến tham gia múa nhiều điệu múa truyền thống như múa cờ, múa tế rùa, múa kiếm, múa chuông... Trước ban thờ Bàn vương, ông thầy múa đi trước, theo sau là một tốp thanh niên (khoảng 10 người) nối tiếp nhau vừa đi, vừa diễn tả các động tác múa minh họa, cùng với tiếng trống, tiếng cồng, tiếng chiêng và tiếng hú, tiếng hò vang tạo thành không khí tưng bừng, nhộn nhịp làm rung động cả vùng núi rừng Đà Bắc. Trong suốt thời gian nhảy, chủ nhà mổ lợn, gói bánh để đãi khách. Họ vừa cúng, vừa uống rượu, ăn cỗ, múa hát thay phiên nhau liên tục trong nhiều ngày...

Đây quả thật là lễ hội đã góp phần tô điểm cho đời sống văn hóa ở vùng núi cao Hòa Bình thêm phong phú và đa dạng.
Vân Nam

Người Dao đỏ Nà Hỳ giữ “hồn” dân tộc (Hà Linh)

Sinh sống rải rác ở 3 bản: Huổi Cơ Dạo, Sín Chải 1 và 2 của xã Nà Hỳ, những năm qua hơn 200 hộ dân người Dao đỏ cùng chung sống với nhiều dân tộc khác, như: Thái, Mông, Khơ Mú... song lại hết sức hòa đồng. Điều đáng nói, khi đến đây, ta vẫn nhận biết được họ bằng nhiều nét đặc trưng riêng biệt mà không lẫn với các dân tộc khác.

Điều đầu tiên dễ nhận biết nhất, đó là trang phục truyền thống. Hiện nay, người Dao đỏ ở Nà Hỳ vẫn giữ được nhiều nét đặc sắc trên bộ trang phục sử dụng trong các sinh hoạt thường ngày. Đặc biệt, chị em phụ nữ ở đây vẫn duy trì việc làm ra trang phục cho bản thân và mọi người trong gia đình. Ngoài các công việc nương rẫy, bếp núc hàng ngày, lúc nông nhàn họ lại cần mẫn với từng đường kim, mũi chỉ. Những bộ trang phục đẹp nhất sẽ được cất giữ để diện trong các dịp lễ tết, còn trang phục thường ngày sẽ được tối giản bớt các phần cầu kỳ, tuy nhiên vẫn đảm bảo đường nét, chi tiết cơ bản nhất, đặc biệt là về màu sắc, họa tiết. Bộ trang phục mang 5 màu cơ bản, trong đó màu đỏ được chọn là màu chủ đạo cho khăn đội đầu và màu đen cho thân áo. Các họa tiết hoa văn trang trí mang nét đặc trưng khác biệt với các dân tộc khác, chủ yếu sử dụng các họa tiết hình dấu chân hổ, hình thập ngoặc, cây thông, răng cưa, hoa cúc tiền bạc...

Còn đối với người nghệ nhân này, văn hóa dân tộc, chính là huyết mạch, là dòng máu đang chảy trong ông. Điều đó thể hiện qua bộ trang phục ông mang trên mình, chiếc khăn đội trên đầu không phải mỗi dịp lễ tết mà trong cả ngày thường... hay tất cả những di sản quý, như: bộ sách cổ được viết trên giấy dó, ấn tín... Trải qua gần hết đời người với bao thăng trầm, thay đổi của cuộc sống, ông vẫn gìn giữ và trân trọng những thứ đó như món đồ giá trị trong nhà. Hiện nay, ông còn làm cả thầy mo đi cúng cho mọi nhà mỗi dịp lễ tết, nhận dạy viết chữ truyền thống cho bất cứ ai có nhu cầu; hơn thế loại giấy dó dùng để viết vẫn được ông tự tay làm bằng rơm theo cách truyền thống của người Dao... Và với ông, mỗi dịp có khách ghé thăm nhà đều là cơ hội để giới thiệu, quảng bá rộng rãi hơn những nét đẹp văn hóa của dân tộc mình. Chính bởi vậy, với mỗi vị khách, đặc biệt là những người quan tâm đến văn hóa truyền thống dân tộc, đều được ông hết sức quý trọng. Đó là lý do ông không tiếc thời gian giới thiệu, hướng dẫn tỉ mỉ cho từng người cách viết chữ cổ, cách làm giấy dó, hay kể cho họ nghe về những câu chuyện ngụ ngôn dân gian, ca dao, tục ngữ truyền thống... dù đôi khi phải mất đến cả ngày. Cũng giống như gương mặt đã in hằn dấu vết của thời gian, thì nét rạng rỡ, niềm hạnh phúc từ tâm cũng là điều ông không thể dấu mỗi dịp như thế này.

Qua đợt tổng kiểm kê văn hóa cuối năm 2014 cho thấy, hiện nay người Dao trên địa bàn huyện Nậm Pồ, nhất là Dao đỏ ở xã Nà Hỳ vẫn còn lưu giữ nhiều nét văn hóa hết sức độc đáo. Ngoài trang phục; các lễ hội, phong tục ma chay, cưới hỏi; nghề làm trống, làm giấy dó bằng rơm; dân ca, dân vũ, trò chơi truyền thống... thì họ vẫn còn lưu giữ một kho tàng ngữ văn dân gian, gồm: truyện, thơ, đồng dao, tục ngữ, thành ngữ... đa dạng, thông qua cách truyền miệng từ các nghệ nhân, người già cho con, cháu mỗi dịp gia đình tụ họp đông người. Tuy nhiên, do với số lượng dân số ít, lại sinh sống hòa lẫn với nhiều dân tộc khác nên một số nét văn hóa đang có nguy cơ dần bị mai một. Trong khi đó, Nậm Pồ lại là huyện mới, đang trong quá trình đầu tư và có xu hướng phát triển mạnh trong một vài năm tới. Cùng với đó là những tác động trái chiều, ít nhiều làm ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống là điều khó tránh khỏi. Vẫn biết, để bảo vệ “cái hồn” cho một dân tộc thì vấn đề cốt lõi vẫn là con người, mà trên hết đó là ý thức của họ. Song sẽ rất cần một dự án cụ thể, với sự quan tâm vào cuộc đồng bộ từ nhiều phía, tạo thêm nguồn lực để người dân không chỉ gìn giữ mà còn phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp được coi như “cái hồn” của dân tộc đó.

Hà Linh
Sinh sống rải rác ở 3 bản: Huổi Cơ Dạo, Sín Chải 1 và 2 của xã Nà Hỳ, những năm qua hơn 200 hộ dân người Dao đỏ cùng chung sống với nhiều dân tộc khác, như: Thái, Mông, Khơ Mú... song lại hết sức hòa đồng. Điều đáng nói, khi đến đây, ta vẫn nhận biết được họ bằng nhiều nét đặc trưng riêng biệt mà không lẫn với các dân tộc khác.

Điều đầu tiên dễ nhận biết nhất, đó là trang phục truyền thống. Hiện nay, người Dao đỏ ở Nà Hỳ vẫn giữ được nhiều nét đặc sắc trên bộ trang phục sử dụng trong các sinh hoạt thường ngày. Đặc biệt, chị em phụ nữ ở đây vẫn duy trì việc làm ra trang phục cho bản thân và mọi người trong gia đình. Ngoài các công việc nương rẫy, bếp núc hàng ngày, lúc nông nhàn họ lại cần mẫn với từng đường kim, mũi chỉ. Những bộ trang phục đẹp nhất sẽ được cất giữ để diện trong các dịp lễ tết, còn trang phục thường ngày sẽ được tối giản bớt các phần cầu kỳ, tuy nhiên vẫn đảm bảo đường nét, chi tiết cơ bản nhất, đặc biệt là về màu sắc, họa tiết. Bộ trang phục mang 5 màu cơ bản, trong đó màu đỏ được chọn là màu chủ đạo cho khăn đội đầu và màu đen cho thân áo. Các họa tiết hoa văn trang trí mang nét đặc trưng khác biệt với các dân tộc khác, chủ yếu sử dụng các họa tiết hình dấu chân hổ, hình thập ngoặc, cây thông, răng cưa, hoa cúc tiền bạc...

Còn đối với người nghệ nhân này, văn hóa dân tộc, chính là huyết mạch, là dòng máu đang chảy trong ông. Điều đó thể hiện qua bộ trang phục ông mang trên mình, chiếc khăn đội trên đầu không phải mỗi dịp lễ tết mà trong cả ngày thường... hay tất cả những di sản quý, như: bộ sách cổ được viết trên giấy dó, ấn tín... Trải qua gần hết đời người với bao thăng trầm, thay đổi của cuộc sống, ông vẫn gìn giữ và trân trọng những thứ đó như món đồ giá trị trong nhà. Hiện nay, ông còn làm cả thầy mo đi cúng cho mọi nhà mỗi dịp lễ tết, nhận dạy viết chữ truyền thống cho bất cứ ai có nhu cầu; hơn thế loại giấy dó dùng để viết vẫn được ông tự tay làm bằng rơm theo cách truyền thống của người Dao... Và với ông, mỗi dịp có khách ghé thăm nhà đều là cơ hội để giới thiệu, quảng bá rộng rãi hơn những nét đẹp văn hóa của dân tộc mình. Chính bởi vậy, với mỗi vị khách, đặc biệt là những người quan tâm đến văn hóa truyền thống dân tộc, đều được ông hết sức quý trọng. Đó là lý do ông không tiếc thời gian giới thiệu, hướng dẫn tỉ mỉ cho từng người cách viết chữ cổ, cách làm giấy dó, hay kể cho họ nghe về những câu chuyện ngụ ngôn dân gian, ca dao, tục ngữ truyền thống... dù đôi khi phải mất đến cả ngày. Cũng giống như gương mặt đã in hằn dấu vết của thời gian, thì nét rạng rỡ, niềm hạnh phúc từ tâm cũng là điều ông không thể dấu mỗi dịp như thế này.

Qua đợt tổng kiểm kê văn hóa cuối năm 2014 cho thấy, hiện nay người Dao trên địa bàn huyện Nậm Pồ, nhất là Dao đỏ ở xã Nà Hỳ vẫn còn lưu giữ nhiều nét văn hóa hết sức độc đáo. Ngoài trang phục; các lễ hội, phong tục ma chay, cưới hỏi; nghề làm trống, làm giấy dó bằng rơm; dân ca, dân vũ, trò chơi truyền thống... thì họ vẫn còn lưu giữ một kho tàng ngữ văn dân gian, gồm: truyện, thơ, đồng dao, tục ngữ, thành ngữ... đa dạng, thông qua cách truyền miệng từ các nghệ nhân, người già cho con, cháu mỗi dịp gia đình tụ họp đông người. Tuy nhiên, do với số lượng dân số ít, lại sinh sống hòa lẫn với nhiều dân tộc khác nên một số nét văn hóa đang có nguy cơ dần bị mai một. Trong khi đó, Nậm Pồ lại là huyện mới, đang trong quá trình đầu tư và có xu hướng phát triển mạnh trong một vài năm tới. Cùng với đó là những tác động trái chiều, ít nhiều làm ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống là điều khó tránh khỏi. Vẫn biết, để bảo vệ “cái hồn” cho một dân tộc thì vấn đề cốt lõi vẫn là con người, mà trên hết đó là ý thức của họ. Song sẽ rất cần một dự án cụ thể, với sự quan tâm vào cuộc đồng bộ từ nhiều phía, tạo thêm nguồn lực để người dân không chỉ gìn giữ mà còn phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp được coi như “cái hồn” của dân tộc đó.

Hà Linh

Đám cưới của người Dao Tiền (Xuân Trường)

 Một người cao niên bên nhà trai đưa cô dâu vào phòng cưới. Từ phút này, cô dâu là người nhà họ Bàn.

Với người Dao Tiền, được làm đám cưới theo đúng phong tục của ông bà để đón dâu về nhà chồng là một hạnh phúc lớn. Nhưng không phải ai cũng có niềm vui ấy vì rất tốn kém.

Chỉ tính bạc trắng làm vòng cổ, đeo trên áo mà nhà trai cho con dâu cũng đến … 4-5kg, trị giá hàng trăm triệu đồng. Không có tiền lấy vợ sẽ phải đi ở rể, con cái theo họ mẹ. Những bức ảnh này chụp đám cưới người Dao Tiền ở Bản Đổng, xã Thành Công, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.

Chú rể Bàn Đức Phong và cô dâu Đặng Thị Lan đều đang đi học trung cấp dược và mầm non để tới đây về xã làm việc. “Chúng em được đi ra ngoài học hành, nhưng vẫn thấy vô cùng hạnh phúc khi hai gia đình đủ điều kiện để làm đám cưới theo phong tục của dân tộc” - cô dâu nói.

Bữa cơm trên đường sang nhà gái, theo phong tục thể hiện sự chu đáo của nhà trai lo đường sá xa xôi…

Cô gái đại diện nhà trai dắt cô dâu về, chú rể chỉ đi theo… cầm túi đồ.

Khi quan khách hai họ đang chúc tụng vui vẻ, một cô gái bên nhà trai lặng lẽ “dắt trộm” cô dâu đi

Bạc tính theo cân, riêng vòng bạc đã hơn 3,2kg.

Chú rể cùng bố và người thân sang nhà thông gia nấu cơm mời nhà gái thể hiện lòng biết ơn công nuôi dưỡng cô dâu.

Cô dâu và chú rể đi mời rượu khách đến mừng.
Xuân Trường 
 Một người cao niên bên nhà trai đưa cô dâu vào phòng cưới. Từ phút này, cô dâu là người nhà họ Bàn.

Với người Dao Tiền, được làm đám cưới theo đúng phong tục của ông bà để đón dâu về nhà chồng là một hạnh phúc lớn. Nhưng không phải ai cũng có niềm vui ấy vì rất tốn kém.

Chỉ tính bạc trắng làm vòng cổ, đeo trên áo mà nhà trai cho con dâu cũng đến … 4-5kg, trị giá hàng trăm triệu đồng. Không có tiền lấy vợ sẽ phải đi ở rể, con cái theo họ mẹ. Những bức ảnh này chụp đám cưới người Dao Tiền ở Bản Đổng, xã Thành Công, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.

Chú rể Bàn Đức Phong và cô dâu Đặng Thị Lan đều đang đi học trung cấp dược và mầm non để tới đây về xã làm việc. “Chúng em được đi ra ngoài học hành, nhưng vẫn thấy vô cùng hạnh phúc khi hai gia đình đủ điều kiện để làm đám cưới theo phong tục của dân tộc” - cô dâu nói.

Bữa cơm trên đường sang nhà gái, theo phong tục thể hiện sự chu đáo của nhà trai lo đường sá xa xôi…

Cô gái đại diện nhà trai dắt cô dâu về, chú rể chỉ đi theo… cầm túi đồ.

Khi quan khách hai họ đang chúc tụng vui vẻ, một cô gái bên nhà trai lặng lẽ “dắt trộm” cô dâu đi

Bạc tính theo cân, riêng vòng bạc đã hơn 3,2kg.

Chú rể cùng bố và người thân sang nhà thông gia nấu cơm mời nhà gái thể hiện lòng biết ơn công nuôi dưỡng cô dâu.

Cô dâu và chú rể đi mời rượu khách đến mừng.
Xuân Trường 

NGHI LỄ THỜ CÚNG TỔ TIÊN TRONG ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT (Đinh Huyền Trang)

Bàn Thờ của người Dao

Ở Tuyên Quang, đồng bào Dao Quần Chẹt cư trú chủ yếu ở các xã Thanh Phát, Hợp Hoà, Kháng Nhật (huyện Sơn Dương). Phong tục tập quán của đồng bào phong phú, đặc sắc và được gìn giữ. Trong đời sống văn hóa tinh thần, đồng bào Dao Quần Chẹt coi trọng đạo lý, sống nghĩa tình, thể hiện cách ứng xử của mình thông qua các nghi lễ truyền thống như: Nghi lễ trong chu kỳ đời người, được thể hiện qua những tập tục trong sinh đẻ và nuôi dạy con, lễ cấp sắc nghi lễ cưới xin, ma chay. Đặc biệt là các nghi lễ tín ngưỡng liên quan đến thờ cúng tổ tiên luôn được đồng bào duy trì, thể hiện qua tục lệ tách tổ, dựng tổ mới.

Cây lớn thì phải chia cành, con lớn thì phải chia tổ, đó là quan niệm của đồng bào Dao Quần Chẹt. Trong chu kỳ đời người, đồng bào Dao Quần Chẹt phải thực hiện nghi lễ tách,dựng tổ. Con cái trưởng thành thì phải tách tổ để dựng tổ mới. Tổ mới được tách từ tổ già, nhưng chỉ được tách tổ khi nhà bố mẹ đã hoàn tất các nghi lễ vun tổ, tế mộ tổ, đã có tranh thờ..., gia đình đã cưới vợ cho con trai trưởng và các con thứ, đã làm lễ cấp sắc cho con trai. Gia đình sẽ bàn bạc để quyết định cho người con nào ra ở riêng, không nhất thiết phải là con trưởng hay con thứ, tiếp sau đó các con lần lượt đều phải tách tổ. Khi đã thống nhất, gia đình dự định thời gian và nhờ thầy cúng xem ngày tốt để tách tổ và dựng tổ mới.
Để thực hiện nghi lễ tách tổ, gia đình phải mời thầy cúng xin tổ tiên, hương hỏa chấp thuận cho tách tổ, che chở bảo vệ cho con cháu được yên lành. Cúng xong, người con trai được tách tổ lấy một ít tro bếp ở nhà bố mẹ vào bát hương đem về dâng lên bàn thờ nhà mới để thờ cúng.
Sau đó, gia đình thực hiện nghi lễ dựng tổ mới. Đây là nghi lễ cúng báo với tổ tiên việc đã làm xong lễ tách tổ, nay dựng tổ mới, cầu xin tổ tiên chấp thuận.
Cúng dựng tổ xong, gia đình lập một bàn thờ ở dưới bếp để cúng mời thần bếp về an vị, cai quản việc bếp núc, lễ cúng có 1 con gà.
 Tiếp theo, lễ cúng vun tổ được thực hiện sau khoảng một năm, khi đã hoàn tất việc tách, dựng tổ mới. Lễ cúng thực hiện để xin tổ tiên phù hộ cho con cháu ngày càng vun tổ lớn. Sau 1 đến 2 năm, gia đình tiếp tục làm lễ hứa và trả lễ cho tổ tiên, hương hỏa. Nghi lễ này được gọi là hấu nhụn hào sthúng nhụn, thực hiện nghi lễ với mục đích để tiếp tục vun tổ lớn hơn. Làm lễ này phải qua các nghi lễ mà theo đồng bào gọi là hấu nhụn, pang nhụn, bủa nhụn và xé nhụn, các lễ này có thể làm trong tháng nào tuỳ điều kiện từng gia đình nhưng phải làm trong 1 năm, trong các lễ này chỉ dâng hương, nước và xin khất lễ mặn, lễ mặn được hứa khất tượng trưng vào  nhụn, đến khi vun tổ xong sẽ dâng vào lễ cúng xé nhụn.
Hấu nhụn là lễ cúng hương hoả và tổ tiên, xin phù hộ cho gia đình và hứa sẽ trả lễ cho Tam Thanh và Tổ tiên. Pang nhụn là nghi lễ cúng tổ tiên xin phù hộ cho gia đình và hứa sẽ trả lễ thêm tiền bạc, mục đích để vun tổ lớn thêm. Bủa nhụn nhằm mục đích vun tổ, khai quang tranh. Khi thực hiện lễ này, gia đình đã được có 1 bộ tranh thờ, đồng bào gọi tranh thờ là sò phảng, tượng trưng cho hương hoả chung của người Dao: 1 tranh là Tam Thanh nhỏ, 1 tranh là Bàn Vương). Sau khi khai quang tranh, gia đình làm lễ cảm tạ tổ tiên, hương hoả đã cho gia đình vun tổ được lớn dần và kết thúc bằng lễ vun tổ lớn (mạng noi).
Xé nhụn là nghi lễ được thực hiện khi đã kết thúc các lễ vun tổ và cúng hứa khất trả lễ cho tổ tiên, hương hỏa. Gia đình tháo gỡ các nhụn của các lần cúng khất, sau đó phải có lễ đủ như đã hứa là lợn, rượu, tiền bạc... để cúng cho tổ tiên và hương hoả. Cúng xong hoá tiền vàng và xé nhụn đi, coi như đã trả xong lễ đã hứa.
Sau khi thực hiện các nghi lễ trên, gia đình làm lễ tạ mả tổ. Xuất phát từ tập quán du canh du cư trước đây, mỗi khi chuyển nơi ở mới đồng bào không bốc mộ đi theo, do vậy ở nơi ở mới được đồng bào phân kỳ để thờ cúng tổ tiên thành ba đời: thượng, trung, hạ và thực hiện các lễ tạ mả hạ, trung, thượng. Lễ tạ mả phải làm một khu mộ tượng trưng cho mộ tổ tiên qua các đời để cúng tạ ơn. Sau khi làm lễ tạ mả hạ, mả trung, gia đình đã được phép có 2 bộ tranh thờ. Việc khai quang tranh là nghi lễ bắt buộc bởi vì theo quan niệm của đồng bào Dao Quần Chẹt, khi đã được phép có tranh thờ tức là trong nhà đã có thần thánh che chở. Tranh thờ thể hiện sự linh thiêng, do vậy phải có nghi lễ để làm cho tranh được soi sáng. Nghi lễ khai quang tranh thường được làm sau lễ tạ mả trung khoảng từ một đến hai năm. Gia đình có con trai đến tuổi làm lễ cấp sắc có thể kết hợp cấp sắc trong lễ khai quang tranh. Khi gia đình đã khai quang tranh là đã được phép thờ Tam Thanh, do vậy cần phải có âm binh, lương thực. Gia đình tiếp tục phải sắm sửa lễ để cúng chiêu âm binh, lương thực cho Tam Thanh và đồng thời cho hương hỏa, tổ tiên. Thời gian tùy thuộc vào điều kiện của gia đình nhưng không quá một năm sau khi đã khai quang tranh.
Sau khi hoàn tất các nghi lễ tạ mả hạ, tạ mả trung, khai quang tranh và chiêu hồn lúa, âm binh cho Tam Thanh, khoảng một năm sau, gia đình làm lễ tạ mả thượng. Đây là nghi lễ tạ mả lớn nhất và kết thúc việc trả ơn cho tổ tiên trong nghi lễ tách, dựng tổ. Quan niệm của đồng bào Dao Quần Chẹt thì thực hiện nghi lễ tạ mả thượng xong thì Tổ mới già. Lúc này nhà có người chết mới được làm ma khô, nhà có người làm thầy cúng thì mới được làm thầy cả, được đem tranh đi làm lễ cấp sắc.
Tách tổ, dựng tổ - nghi lễ cứ kế tục như vậy trong suốt vòng đời của đồng bào Dao Quần Chẹt từ bao đời nay, tạo không gian tâm linh linh thiêng, giữ vị trí cốt lõi, quan trọng và bền vững trong đời sống tinh thần của mỗi gia đình, để luôn đặt mình trong sự nối tiếp, biết nguồn cội của mình, công lao sinh thành, nuôi dưỡng của tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thờ cúng vào các dịp: Tết tháng Giêng (luồng khâu), Tết Thanh minh (Sìng mìng), Tết Cầu mùa (pịa suun chiền mìu), Tết tháng Bảy (Slíp sắt lả chiệp phẩy), Tết Cơm mới (nhặn sthèng hẳng), cúng rượu mới, bánh mới (Sthèng bèo rua, sthèng bèo tíu), Tết hết năm (Nhặn nhằng chậm).

 Đinh Huyền Trang
Bàn Thờ của người Dao

Ở Tuyên Quang, đồng bào Dao Quần Chẹt cư trú chủ yếu ở các xã Thanh Phát, Hợp Hoà, Kháng Nhật (huyện Sơn Dương). Phong tục tập quán của đồng bào phong phú, đặc sắc và được gìn giữ. Trong đời sống văn hóa tinh thần, đồng bào Dao Quần Chẹt coi trọng đạo lý, sống nghĩa tình, thể hiện cách ứng xử của mình thông qua các nghi lễ truyền thống như: Nghi lễ trong chu kỳ đời người, được thể hiện qua những tập tục trong sinh đẻ và nuôi dạy con, lễ cấp sắc nghi lễ cưới xin, ma chay. Đặc biệt là các nghi lễ tín ngưỡng liên quan đến thờ cúng tổ tiên luôn được đồng bào duy trì, thể hiện qua tục lệ tách tổ, dựng tổ mới.

Cây lớn thì phải chia cành, con lớn thì phải chia tổ, đó là quan niệm của đồng bào Dao Quần Chẹt. Trong chu kỳ đời người, đồng bào Dao Quần Chẹt phải thực hiện nghi lễ tách,dựng tổ. Con cái trưởng thành thì phải tách tổ để dựng tổ mới. Tổ mới được tách từ tổ già, nhưng chỉ được tách tổ khi nhà bố mẹ đã hoàn tất các nghi lễ vun tổ, tế mộ tổ, đã có tranh thờ..., gia đình đã cưới vợ cho con trai trưởng và các con thứ, đã làm lễ cấp sắc cho con trai. Gia đình sẽ bàn bạc để quyết định cho người con nào ra ở riêng, không nhất thiết phải là con trưởng hay con thứ, tiếp sau đó các con lần lượt đều phải tách tổ. Khi đã thống nhất, gia đình dự định thời gian và nhờ thầy cúng xem ngày tốt để tách tổ và dựng tổ mới.
Để thực hiện nghi lễ tách tổ, gia đình phải mời thầy cúng xin tổ tiên, hương hỏa chấp thuận cho tách tổ, che chở bảo vệ cho con cháu được yên lành. Cúng xong, người con trai được tách tổ lấy một ít tro bếp ở nhà bố mẹ vào bát hương đem về dâng lên bàn thờ nhà mới để thờ cúng.
Sau đó, gia đình thực hiện nghi lễ dựng tổ mới. Đây là nghi lễ cúng báo với tổ tiên việc đã làm xong lễ tách tổ, nay dựng tổ mới, cầu xin tổ tiên chấp thuận.
Cúng dựng tổ xong, gia đình lập một bàn thờ ở dưới bếp để cúng mời thần bếp về an vị, cai quản việc bếp núc, lễ cúng có 1 con gà.
 Tiếp theo, lễ cúng vun tổ được thực hiện sau khoảng một năm, khi đã hoàn tất việc tách, dựng tổ mới. Lễ cúng thực hiện để xin tổ tiên phù hộ cho con cháu ngày càng vun tổ lớn. Sau 1 đến 2 năm, gia đình tiếp tục làm lễ hứa và trả lễ cho tổ tiên, hương hỏa. Nghi lễ này được gọi là hấu nhụn hào sthúng nhụn, thực hiện nghi lễ với mục đích để tiếp tục vun tổ lớn hơn. Làm lễ này phải qua các nghi lễ mà theo đồng bào gọi là hấu nhụn, pang nhụn, bủa nhụn và xé nhụn, các lễ này có thể làm trong tháng nào tuỳ điều kiện từng gia đình nhưng phải làm trong 1 năm, trong các lễ này chỉ dâng hương, nước và xin khất lễ mặn, lễ mặn được hứa khất tượng trưng vào  nhụn, đến khi vun tổ xong sẽ dâng vào lễ cúng xé nhụn.
Hấu nhụn là lễ cúng hương hoả và tổ tiên, xin phù hộ cho gia đình và hứa sẽ trả lễ cho Tam Thanh và Tổ tiên. Pang nhụn là nghi lễ cúng tổ tiên xin phù hộ cho gia đình và hứa sẽ trả lễ thêm tiền bạc, mục đích để vun tổ lớn thêm. Bủa nhụn nhằm mục đích vun tổ, khai quang tranh. Khi thực hiện lễ này, gia đình đã được có 1 bộ tranh thờ, đồng bào gọi tranh thờ là sò phảng, tượng trưng cho hương hoả chung của người Dao: 1 tranh là Tam Thanh nhỏ, 1 tranh là Bàn Vương). Sau khi khai quang tranh, gia đình làm lễ cảm tạ tổ tiên, hương hoả đã cho gia đình vun tổ được lớn dần và kết thúc bằng lễ vun tổ lớn (mạng noi).
Xé nhụn là nghi lễ được thực hiện khi đã kết thúc các lễ vun tổ và cúng hứa khất trả lễ cho tổ tiên, hương hỏa. Gia đình tháo gỡ các nhụn của các lần cúng khất, sau đó phải có lễ đủ như đã hứa là lợn, rượu, tiền bạc... để cúng cho tổ tiên và hương hoả. Cúng xong hoá tiền vàng và xé nhụn đi, coi như đã trả xong lễ đã hứa.
Sau khi thực hiện các nghi lễ trên, gia đình làm lễ tạ mả tổ. Xuất phát từ tập quán du canh du cư trước đây, mỗi khi chuyển nơi ở mới đồng bào không bốc mộ đi theo, do vậy ở nơi ở mới được đồng bào phân kỳ để thờ cúng tổ tiên thành ba đời: thượng, trung, hạ và thực hiện các lễ tạ mả hạ, trung, thượng. Lễ tạ mả phải làm một khu mộ tượng trưng cho mộ tổ tiên qua các đời để cúng tạ ơn. Sau khi làm lễ tạ mả hạ, mả trung, gia đình đã được phép có 2 bộ tranh thờ. Việc khai quang tranh là nghi lễ bắt buộc bởi vì theo quan niệm của đồng bào Dao Quần Chẹt, khi đã được phép có tranh thờ tức là trong nhà đã có thần thánh che chở. Tranh thờ thể hiện sự linh thiêng, do vậy phải có nghi lễ để làm cho tranh được soi sáng. Nghi lễ khai quang tranh thường được làm sau lễ tạ mả trung khoảng từ một đến hai năm. Gia đình có con trai đến tuổi làm lễ cấp sắc có thể kết hợp cấp sắc trong lễ khai quang tranh. Khi gia đình đã khai quang tranh là đã được phép thờ Tam Thanh, do vậy cần phải có âm binh, lương thực. Gia đình tiếp tục phải sắm sửa lễ để cúng chiêu âm binh, lương thực cho Tam Thanh và đồng thời cho hương hỏa, tổ tiên. Thời gian tùy thuộc vào điều kiện của gia đình nhưng không quá một năm sau khi đã khai quang tranh.
Sau khi hoàn tất các nghi lễ tạ mả hạ, tạ mả trung, khai quang tranh và chiêu hồn lúa, âm binh cho Tam Thanh, khoảng một năm sau, gia đình làm lễ tạ mả thượng. Đây là nghi lễ tạ mả lớn nhất và kết thúc việc trả ơn cho tổ tiên trong nghi lễ tách, dựng tổ. Quan niệm của đồng bào Dao Quần Chẹt thì thực hiện nghi lễ tạ mả thượng xong thì Tổ mới già. Lúc này nhà có người chết mới được làm ma khô, nhà có người làm thầy cúng thì mới được làm thầy cả, được đem tranh đi làm lễ cấp sắc.
Tách tổ, dựng tổ - nghi lễ cứ kế tục như vậy trong suốt vòng đời của đồng bào Dao Quần Chẹt từ bao đời nay, tạo không gian tâm linh linh thiêng, giữ vị trí cốt lõi, quan trọng và bền vững trong đời sống tinh thần của mỗi gia đình, để luôn đặt mình trong sự nối tiếp, biết nguồn cội của mình, công lao sinh thành, nuôi dưỡng của tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thờ cúng vào các dịp: Tết tháng Giêng (luồng khâu), Tết Thanh minh (Sìng mìng), Tết Cầu mùa (pịa suun chiền mìu), Tết tháng Bảy (Slíp sắt lả chiệp phẩy), Tết Cơm mới (nhặn sthèng hẳng), cúng rượu mới, bánh mới (Sthèng bèo rua, sthèng bèo tíu), Tết hết năm (Nhặn nhằng chậm).

 Đinh Huyền Trang

Giấy dó của người Dao đỏ (Thanh Tấn)

Giấy dó là sản phẩm phổ biến dùng trong nghi thức cúng tế của người Dao đỏ.

Nghề làm giấy dó của người Dao đỏ ở xã Nậm Lành, huyện Văn Chấn (Yên Bái) tuy không phát triển thành một làng nghề truyền thống, nhưng đã và đang tồn tại như một minh chứng cho bàn tay tài hoa và những giá trị văn hóa lâu đời.

Cũng như nhiều gia đình người Dao ở xã Nậm Lành, năm nào cũng vậy, chuẩn bị đón tết Nguyên đán, gia đình bà Lý Thị Kiều, thôn Nậm Kịp đều chuẩn bị nguyên liệu làm giấy dó. Công việc này tuy vất vả, tỉ mỉ, không có thu nhập nhưng với ý thức giữ gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, bà Kiều vẫn duy trì đều đặn để mỗi tuần sản xuất một mẻ giấy khoảng 600 tờ.

Theo tâm sự của bà, cứ dịp gần đến tết Nguyên đán, người dân trong xã mới bắt tay làm giấy dó, sau đó nhờ các thầy cúng cao tay trong xã vẽ tranh, viết chữ treo trong nhà cho may mắn và giấy phải tự tay gia đình làm ra mới linh thiêng. Song, để làm được sản phẩm giấy dó cũng tốn khá nhiều công, từ việc lấy nguyên liệu, ngâm ủ đến làm ra sản phẩm cũng phải mất nửa tháng trời.

Giấy dó được làm từ những nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên, được sử dụng trong các nghi lễ truyền thống như: lễ tết, ma chay, cưới hỏi của người Dao đỏ. Mỗi tờ giấy chính là nguyên liệu để các nghệ nhân thể hiện các tác phẩm tranh vẽ tín ngưỡng phục vụ thờ cúng, tục treo tranh, các lễ hội như Cấp sắc, hội xuân...

Từ xa xưa, giấy dó còn được dùng để viết thư thăm hỏi, trao đổi kinh nghiệm sản xuất và không thể thiếu để phục vụ nhiều nghi lễ truyền thống của dân tộc. Ngoài ra, giấy dó còn dùng để làm bía cho trẻ con, người lớn, chính bởi vậy mà nghề làm giấy dó của người Dao đỏ còn được lưu truyền cho đến ngày nay.

Xã Nậm Lành có trên 90% là dân tộc Dao đỏ, trước đây hầu hết các nhà đều làm giấy dó nhưng giờ nghề truyền thống này đang dần bị mai một, đến nay chỉ còn gần 10 hộ duy trì nghề. Đây là loại giấy độc đáo do chính bàn tay người Dao đỏ làm ra, có nguồn gốc từ rất lâu đời và công nghệ sản xuất được lưu giữ qua nhiều thế hệ.

Đây là loại giấy rất đặc biệt, không trắng như giấy công nghiệp nhưng dai, bền và thoang thoảng mùi thơm cây rừng. Loại cây được sử dụng để làm giấy nhiều nhất là cây vầu hoặc rơm nếp sau mùa thu hoạch. Dụng cụ cơ bản để làm giấy dó là một cái khuôn làm bằng vải, có nhiều kích cỡ khác nhau (thường là 60cmx120cm), một nồi nấu chất liệu giấy và một chậu đựng nước pha bột giấy...

Khi cây vầu cao chừng 3 mét, người ta chặt về, loại bỏ lá, cành rồi cắt thành từng đoạn ngắn đem luộc mềm. Vầu hoặc rơm đã luộc được ngâm với vôi và tro bếp khoảng 10 ngày cho nhuyễn hẳn rồi dùng cối để giã thành bột, khi đó sẽ được một loại dung dịch sóng sánh màu vàng xanh. Người Dao đỏ lấy dung dịch này tráng thật mỏng trên khuôn vải giống như tráng bánh cuốn, phơi khô rồi bóc ra là được tấm giấy dó đầu tiên.

Việc làm giấy chủ yếu do người phụ nữ Dao đảm nhiệm. Để có những tờ giấy vuông vắn, công đoạn cuối cùng là xếp các tấm giấy thành lớp, gấp vào, dùng thanh nứa mảnh rọc theo khổ 10 x 20cm hoặc 20 x 30cm, sau đó chạm hoa văn nổi bằng một dụng cụ kim loại. Mỗi tờ giấy cầm lên mỏng tang, sắc vàng, độ xốp cao, dai mịn, soi ra ngoài ánh nắng thấy rõ những sợi tơ và phảng phất hương thơm của cây rừng.

Được làm từ bàn tay khéo léo của người Dao đỏ, theo những bí quyết riêng, giấy dó là loại giấy tuy mỏng, nhưng dai và bền hơn giấy sản xuất công nghiệp. Nếu được bảo quản ở nơi khô ráo, giấy có thể để vài chục năm. Bởi thế, loại giấy này phổ biến và được ưa thích không chỉ trong cộng đồng người Dao. Mỗi gia đình người Dao có một góc thờ, chỉ dán tờ giấy lên vách phía sau đối diện với cửa chính để đánh dấu. Cũng giống như người Kinh đốt vàng mã trong ngày lễ, người Dao đỏ cũng đốt giấy dó theo quan niệm tâm linh.

Ngoài ra, giấy dó còn được đóng thành quyển để viết chữ. Trong mỗi gia đình người Dao đỏ nói riêng đều lưu giữ một, hai cuốn sách chữ nho viết bằng mực màu trên giấy dó. Trải qua bao thế hệ, có cuốn bìa đã rách nát mà nét chữ vẫn không phai màu. Chính sự cẩn trọng, giữ gìn và lòng thành kính khi sử dụng giấy dó đã cho thấy giá trị tôn nghiêm của loại giấy này trong đời sống văn hóa phong tục của người Dao đỏ. Tuy nhiên, cuộc sống ngày càng phát triển, lớp trẻ dân tộc Dao được tiếp cận với nhiều nền văn hóa hiện đại, được sử dụng các loại giấy chất lượng cao, tiện lợi, rẻ tiền, dễ sử dụng nên nghề làm giấy dó đang có nguy cơ bị mai một.

Để gìn giữ một nghề truyền thống không mang lại giá trị kinh tế và thu nhập cho người dân không phải là chuyện đơn giản bởi theo như tâm sự của  bà Bàn Thị Náy - Phó chủ tịch UBND xã Nậm Lành thì lớp trẻ trong làng, trong xã lớn lên đều thoát ly để kiếm sống, hầu như chúng không mặn mà với công việc này, lớp người già biết làm cũng dần mai một.

Nghề làm giấy dó của người Dao đỏ ở xã Nậm Lành tuy không phát triển thành một làng nghề truyền thống, nhưng đã và đang tồn tại như một minh chứng cho bàn tay tài hoa và những giá trị văn hóa lâu đời, đồng thời nó có tầm quan trọng đối với phong tục, tập quán, đời sống văn hóa của dân tộc. Việc nghiên cứu bảo tồn nét văn hóa truyền thống đặc trưng này không chỉ có người dân làm được mà rất cần sự quan tâm của các cấp, các ngành và cả cộng đồng.
Thanh Tân
Giấy dó là sản phẩm phổ biến dùng trong nghi thức cúng tế của người Dao đỏ.

Nghề làm giấy dó của người Dao đỏ ở xã Nậm Lành, huyện Văn Chấn (Yên Bái) tuy không phát triển thành một làng nghề truyền thống, nhưng đã và đang tồn tại như một minh chứng cho bàn tay tài hoa và những giá trị văn hóa lâu đời.

Cũng như nhiều gia đình người Dao ở xã Nậm Lành, năm nào cũng vậy, chuẩn bị đón tết Nguyên đán, gia đình bà Lý Thị Kiều, thôn Nậm Kịp đều chuẩn bị nguyên liệu làm giấy dó. Công việc này tuy vất vả, tỉ mỉ, không có thu nhập nhưng với ý thức giữ gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, bà Kiều vẫn duy trì đều đặn để mỗi tuần sản xuất một mẻ giấy khoảng 600 tờ.

Theo tâm sự của bà, cứ dịp gần đến tết Nguyên đán, người dân trong xã mới bắt tay làm giấy dó, sau đó nhờ các thầy cúng cao tay trong xã vẽ tranh, viết chữ treo trong nhà cho may mắn và giấy phải tự tay gia đình làm ra mới linh thiêng. Song, để làm được sản phẩm giấy dó cũng tốn khá nhiều công, từ việc lấy nguyên liệu, ngâm ủ đến làm ra sản phẩm cũng phải mất nửa tháng trời.

Giấy dó được làm từ những nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên, được sử dụng trong các nghi lễ truyền thống như: lễ tết, ma chay, cưới hỏi của người Dao đỏ. Mỗi tờ giấy chính là nguyên liệu để các nghệ nhân thể hiện các tác phẩm tranh vẽ tín ngưỡng phục vụ thờ cúng, tục treo tranh, các lễ hội như Cấp sắc, hội xuân...

Từ xa xưa, giấy dó còn được dùng để viết thư thăm hỏi, trao đổi kinh nghiệm sản xuất và không thể thiếu để phục vụ nhiều nghi lễ truyền thống của dân tộc. Ngoài ra, giấy dó còn dùng để làm bía cho trẻ con, người lớn, chính bởi vậy mà nghề làm giấy dó của người Dao đỏ còn được lưu truyền cho đến ngày nay.

Xã Nậm Lành có trên 90% là dân tộc Dao đỏ, trước đây hầu hết các nhà đều làm giấy dó nhưng giờ nghề truyền thống này đang dần bị mai một, đến nay chỉ còn gần 10 hộ duy trì nghề. Đây là loại giấy độc đáo do chính bàn tay người Dao đỏ làm ra, có nguồn gốc từ rất lâu đời và công nghệ sản xuất được lưu giữ qua nhiều thế hệ.

Đây là loại giấy rất đặc biệt, không trắng như giấy công nghiệp nhưng dai, bền và thoang thoảng mùi thơm cây rừng. Loại cây được sử dụng để làm giấy nhiều nhất là cây vầu hoặc rơm nếp sau mùa thu hoạch. Dụng cụ cơ bản để làm giấy dó là một cái khuôn làm bằng vải, có nhiều kích cỡ khác nhau (thường là 60cmx120cm), một nồi nấu chất liệu giấy và một chậu đựng nước pha bột giấy...

Khi cây vầu cao chừng 3 mét, người ta chặt về, loại bỏ lá, cành rồi cắt thành từng đoạn ngắn đem luộc mềm. Vầu hoặc rơm đã luộc được ngâm với vôi và tro bếp khoảng 10 ngày cho nhuyễn hẳn rồi dùng cối để giã thành bột, khi đó sẽ được một loại dung dịch sóng sánh màu vàng xanh. Người Dao đỏ lấy dung dịch này tráng thật mỏng trên khuôn vải giống như tráng bánh cuốn, phơi khô rồi bóc ra là được tấm giấy dó đầu tiên.

Việc làm giấy chủ yếu do người phụ nữ Dao đảm nhiệm. Để có những tờ giấy vuông vắn, công đoạn cuối cùng là xếp các tấm giấy thành lớp, gấp vào, dùng thanh nứa mảnh rọc theo khổ 10 x 20cm hoặc 20 x 30cm, sau đó chạm hoa văn nổi bằng một dụng cụ kim loại. Mỗi tờ giấy cầm lên mỏng tang, sắc vàng, độ xốp cao, dai mịn, soi ra ngoài ánh nắng thấy rõ những sợi tơ và phảng phất hương thơm của cây rừng.

Được làm từ bàn tay khéo léo của người Dao đỏ, theo những bí quyết riêng, giấy dó là loại giấy tuy mỏng, nhưng dai và bền hơn giấy sản xuất công nghiệp. Nếu được bảo quản ở nơi khô ráo, giấy có thể để vài chục năm. Bởi thế, loại giấy này phổ biến và được ưa thích không chỉ trong cộng đồng người Dao. Mỗi gia đình người Dao có một góc thờ, chỉ dán tờ giấy lên vách phía sau đối diện với cửa chính để đánh dấu. Cũng giống như người Kinh đốt vàng mã trong ngày lễ, người Dao đỏ cũng đốt giấy dó theo quan niệm tâm linh.

Ngoài ra, giấy dó còn được đóng thành quyển để viết chữ. Trong mỗi gia đình người Dao đỏ nói riêng đều lưu giữ một, hai cuốn sách chữ nho viết bằng mực màu trên giấy dó. Trải qua bao thế hệ, có cuốn bìa đã rách nát mà nét chữ vẫn không phai màu. Chính sự cẩn trọng, giữ gìn và lòng thành kính khi sử dụng giấy dó đã cho thấy giá trị tôn nghiêm của loại giấy này trong đời sống văn hóa phong tục của người Dao đỏ. Tuy nhiên, cuộc sống ngày càng phát triển, lớp trẻ dân tộc Dao được tiếp cận với nhiều nền văn hóa hiện đại, được sử dụng các loại giấy chất lượng cao, tiện lợi, rẻ tiền, dễ sử dụng nên nghề làm giấy dó đang có nguy cơ bị mai một.

Để gìn giữ một nghề truyền thống không mang lại giá trị kinh tế và thu nhập cho người dân không phải là chuyện đơn giản bởi theo như tâm sự của  bà Bàn Thị Náy - Phó chủ tịch UBND xã Nậm Lành thì lớp trẻ trong làng, trong xã lớn lên đều thoát ly để kiếm sống, hầu như chúng không mặn mà với công việc này, lớp người già biết làm cũng dần mai một.

Nghề làm giấy dó của người Dao đỏ ở xã Nậm Lành tuy không phát triển thành một làng nghề truyền thống, nhưng đã và đang tồn tại như một minh chứng cho bàn tay tài hoa và những giá trị văn hóa lâu đời, đồng thời nó có tầm quan trọng đối với phong tục, tập quán, đời sống văn hóa của dân tộc. Việc nghiên cứu bảo tồn nét văn hóa truyền thống đặc trưng này không chỉ có người dân làm được mà rất cần sự quan tâm của các cấp, các ngành và cả cộng đồng.
Thanh Tân