This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Trang phục dân tộc Tày (Hồng Phượng)

Việt Nam, nơi quần tụ sinh sống của 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc đều có những sắc thái riêng, độc đáo. Và một trong những điểm nhấn tạo nên sắc thái riêng của mỗi dân tộc chính là bộ trang phục truyền thống của đồng bào. Bộ trang phục truyền thống của mỗi dân tộc có kiểu dáng, màu sắc và cách trang trí hoa văn khác nhau. Tuy dân số đông, địa bàn phân tán nhưng dân tộc Tày lại là một cộng đồng thuần nhất với một ý thức rõ rệt điều đó thể hiện qua bộ trang phục truyền thống với sắc màu chủ yếu là màu chàm.

Người Tày là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam, nhóm địa phương Pa dí, Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao, thuộc hệ ngôn ngữ Thái-Kadai sinh sống chủ yếu ở vùng miền núi Đông Bắc nước ta. Người Tày trước đây hay được gọi là người Thổ (tuy nhiên tên gọi này hiện nay được dùng để chỉ một dân tộc khác. Người Tày có dân số đông thứ 2 ở Việt Nam sau dân tộc Kinh


Cái độc đáo đáng quan tâm của trang phục Tày không phải là lối tạo dáng mà là lối dùng màu chàm phổ biến, đồng nhất trên trang phục nam và nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên trong áo ngoài màu chàm. Nhiều tộc người cũng dùng màu chàm nhưng còn gia công trang trí các màu khác trên trang phục, ở người Tày hầu như các màu ngũ sắc được dùng trong hoa văn mặt chăn hay các tấm thổ cẩm.

Truyền thuyết dân gian của đồng bào Tày kể về sự tích cây chàm gắn liền với mối tình chung thủy của đôi trai gái: Thuở ấy có một cô gái con nhà nghèo, mồ côi cha từ nhỏ mà mẹ lại mù lòa. Nàng phải đi làm thuê, làm mướn tần tảo mới có bữa cơm, bữa cháo qua ngày. Khi nàng lớn lên thì người mẹ thân yêu cũng qua đời, để lại một mình nàng cô đơn giữa cuộc đời. Một hôm, có một chàng trai ăn mặc rách rưới đến nhà nàng xin ăn. Vì nhà nghèo không có gì cho kẻ ăn mày, nàng mời khách vào nhà ngồi đợi rồi ra đi cắt bộ tóc dài của mình để đổi lấy đồ ăn về cho kẻ ăn mày cùng ăn.

Thời gian trôi qua, bỗng một hôm có đám về hỏi nàng. Bà mối cho biết, người đến hỏi nàng làm vợ chính là chàng ăn mày nọ. Sau bữa cơm nàng cho ăn, chàng biết nàng đã cắt bộ tóc dài của mình để đổi lấy bữa ăn cho chàng, nên chàng cảm phục tình cảm của nàng. Nàng nhận lời và họ chung sống bên nhau hạnh phúc.

Bỗng đất nước bị giặc Hung nô xâm lược, là phận trai, chàng phải đeo gươm, giáo lên đường đánh giặc giữ nước, một mình nàng ở nhà quán xuyến mọi việc gia đình. Chiến tranh kéo dài, biết bao mùa hoa đã nở, biết bao mùa chim én đã làm tổ mà nàng vẫn mong ngóng chồng trở về trong sự cô đơn, mệt mỏi. Thế rồi nàng quyết định theo hướng chiến trận ra đi tìm chồng. Nàng đi không biết qua bao nhiêu bản, bao nhiêu núi, xuyên qua bao nhiêu rừng già… Sự nhớ nhung, mệt mỏi khiến nàng ngủ thiếp đi và ra đi mãi mãi.

Dân làng biết rất cảm phục tấm lòng chung thủy của nàng, định chôn cất nàng đến nơi nàng yên nghỉ thì thấy mọc lên một cây lạ với mùi thơm kì lạ. Dân làng hiểu rằng, cây lạ đó là hiện thân phần xác của nàng, mùi thơm từ cây đó tỏa ra là hiện thân của lòng chung thủy của nàng. Cây đó chính là cây chàm mà ngày nay đồng bào dùng để nhuộm quần áo mặc.

Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hoà Bình).

Y phục của nam giới Tày gồm loại áo cách 4 thân (slửa cỏm), áo dài 5 thân, khăn đội đầu, quần và giày vải. Áo cánh 4 thân là loại xẻ ngực, cổ tròn cao, không cầu vai, xẻ tà, cài cúc vải (7 cái) và hai túi nhỏ phía dưới 2 thân trước. Trong dịp tết, lễ, hội nam giới mặc thêm loại áo dài 5 thân xẻ nách phải, đơm cúc vải hay cúc đồng. Quần (khóa) cũng làm bằng vải sợi bông nhuộm chàm như áo, cắt theo kiễu quần đũng chéo, độ choãng vừa phải dài tới mắt cá chân. Quần có cạp rộng không luồn rút, khi mặc có dây buộc ngoài. Khăn đội đầu màu chàm (30cm x 200cm) Quấn trên đầu theo lối chữ nhân.


Y phục của nữ thường gồm áo cánh, áo dài năm thân, quần váy, thắt lưng, khăn đội đầu, hài vải. Áo cánh là loại 4 thân xẻ ngực, cổ tròn, có hai túi nhỏ phía dưới hai vạt trước, thường được cắt may bằng vải chàm hoặc trắng. Khi đi hội thường được mặt lót phía trong áo dài. Vì vậy người Tày còn được gọi là cần slửa khao (người áo trắng) để phân biệt với người Nùng chỉ dùng màu chàm. Áo dài cũng là loại 5 thân, xẻ nách phải cài cúc vải hoặc đồng, cổ tròn ống tay và thân hẹp có eo.

Bộ quần áo của dân tộc Tày bao gồm: khăn, áo, quần, dây lưng, tạp dề, guốc hoặc dép. Phụ nữ Tày thường để tóc dài, đội khăn. Khăn là loại khăn vuông gấp chéo kiểu “mỏ quạ”, đội lên đầu, thắt ở sau gáy, tương tự như kiểu đội khăn mỏ quạ của phụ nữ Kinh.

Áo của phụ nữ thường là loại áo năm thân, trong đó bốn thân dài và một thân hụt nằm ở phía ngực bên phải, xẻ chéo từ dưới cổ sang nách bên phải, áo phụ nữ Tày thường dài đến quá bắp chân, thân áo và tay bó hẹp lấy người.

Trước đây phụ nữ mặc váy, nhưng gần đây phổ biến mặc quần, là quần chân què, cát hình lá tọa, đũng rộng có thể cử động thoải mái trong mọi tư thế lao động. Đồng bào thường đeo thắt lưng được dệt bằng vải thủ công, rộng khoảng 40cm gấp làm tư, chiều dài đủ quấn quanh thân người hai vòng, buộc lại ở phía sau, để buông dải đuôi xuống sau lưng.

Nón của phụ nữ Tày khá độc đáo. Nón bằng nan tre lợp lá có mái nón bằng và rộng. Đồ trang sức được cả nam và nữ thích sử dụng đó là vòng cổ, chân, tay..., trẻ em đeo đồ trang sức bằng bạc để trừ tà ma và tránh gió.

Quần áo nam giới đơn giản hơn áo ngắn, xẻ ngực, cài cúc trước ngực và thường cài 5 cúc. Trang phục của nam giới có quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa, áo ngắn cũng may năm thân, cổ đứng. Nam cũng có áo dài như cái áo ngắn kéo dài vạt xuống quá đầu gối.

Nét đặc sắc trên trang phục người Tày lại được thể hiện ở những mẫu hoa văn trên vải. Sự pha trộn phối màu một cách tinh tế và hợp lí tạo đồ họa trên mặt vải khiến cho trang phục của người Tày trở nên sinh động và ấn tượng.

 Hồng Phượng
Việt Nam, nơi quần tụ sinh sống của 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc đều có những sắc thái riêng, độc đáo. Và một trong những điểm nhấn tạo nên sắc thái riêng của mỗi dân tộc chính là bộ trang phục truyền thống của đồng bào. Bộ trang phục truyền thống của mỗi dân tộc có kiểu dáng, màu sắc và cách trang trí hoa văn khác nhau. Tuy dân số đông, địa bàn phân tán nhưng dân tộc Tày lại là một cộng đồng thuần nhất với một ý thức rõ rệt điều đó thể hiện qua bộ trang phục truyền thống với sắc màu chủ yếu là màu chàm.

Người Tày là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam, nhóm địa phương Pa dí, Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao, thuộc hệ ngôn ngữ Thái-Kadai sinh sống chủ yếu ở vùng miền núi Đông Bắc nước ta. Người Tày trước đây hay được gọi là người Thổ (tuy nhiên tên gọi này hiện nay được dùng để chỉ một dân tộc khác. Người Tày có dân số đông thứ 2 ở Việt Nam sau dân tộc Kinh


Cái độc đáo đáng quan tâm của trang phục Tày không phải là lối tạo dáng mà là lối dùng màu chàm phổ biến, đồng nhất trên trang phục nam và nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên trong áo ngoài màu chàm. Nhiều tộc người cũng dùng màu chàm nhưng còn gia công trang trí các màu khác trên trang phục, ở người Tày hầu như các màu ngũ sắc được dùng trong hoa văn mặt chăn hay các tấm thổ cẩm.

Truyền thuyết dân gian của đồng bào Tày kể về sự tích cây chàm gắn liền với mối tình chung thủy của đôi trai gái: Thuở ấy có một cô gái con nhà nghèo, mồ côi cha từ nhỏ mà mẹ lại mù lòa. Nàng phải đi làm thuê, làm mướn tần tảo mới có bữa cơm, bữa cháo qua ngày. Khi nàng lớn lên thì người mẹ thân yêu cũng qua đời, để lại một mình nàng cô đơn giữa cuộc đời. Một hôm, có một chàng trai ăn mặc rách rưới đến nhà nàng xin ăn. Vì nhà nghèo không có gì cho kẻ ăn mày, nàng mời khách vào nhà ngồi đợi rồi ra đi cắt bộ tóc dài của mình để đổi lấy đồ ăn về cho kẻ ăn mày cùng ăn.

Thời gian trôi qua, bỗng một hôm có đám về hỏi nàng. Bà mối cho biết, người đến hỏi nàng làm vợ chính là chàng ăn mày nọ. Sau bữa cơm nàng cho ăn, chàng biết nàng đã cắt bộ tóc dài của mình để đổi lấy bữa ăn cho chàng, nên chàng cảm phục tình cảm của nàng. Nàng nhận lời và họ chung sống bên nhau hạnh phúc.

Bỗng đất nước bị giặc Hung nô xâm lược, là phận trai, chàng phải đeo gươm, giáo lên đường đánh giặc giữ nước, một mình nàng ở nhà quán xuyến mọi việc gia đình. Chiến tranh kéo dài, biết bao mùa hoa đã nở, biết bao mùa chim én đã làm tổ mà nàng vẫn mong ngóng chồng trở về trong sự cô đơn, mệt mỏi. Thế rồi nàng quyết định theo hướng chiến trận ra đi tìm chồng. Nàng đi không biết qua bao nhiêu bản, bao nhiêu núi, xuyên qua bao nhiêu rừng già… Sự nhớ nhung, mệt mỏi khiến nàng ngủ thiếp đi và ra đi mãi mãi.

Dân làng biết rất cảm phục tấm lòng chung thủy của nàng, định chôn cất nàng đến nơi nàng yên nghỉ thì thấy mọc lên một cây lạ với mùi thơm kì lạ. Dân làng hiểu rằng, cây lạ đó là hiện thân phần xác của nàng, mùi thơm từ cây đó tỏa ra là hiện thân của lòng chung thủy của nàng. Cây đó chính là cây chàm mà ngày nay đồng bào dùng để nhuộm quần áo mặc.

Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hoà Bình).

Y phục của nam giới Tày gồm loại áo cách 4 thân (slửa cỏm), áo dài 5 thân, khăn đội đầu, quần và giày vải. Áo cánh 4 thân là loại xẻ ngực, cổ tròn cao, không cầu vai, xẻ tà, cài cúc vải (7 cái) và hai túi nhỏ phía dưới 2 thân trước. Trong dịp tết, lễ, hội nam giới mặc thêm loại áo dài 5 thân xẻ nách phải, đơm cúc vải hay cúc đồng. Quần (khóa) cũng làm bằng vải sợi bông nhuộm chàm như áo, cắt theo kiễu quần đũng chéo, độ choãng vừa phải dài tới mắt cá chân. Quần có cạp rộng không luồn rút, khi mặc có dây buộc ngoài. Khăn đội đầu màu chàm (30cm x 200cm) Quấn trên đầu theo lối chữ nhân.


Y phục của nữ thường gồm áo cánh, áo dài năm thân, quần váy, thắt lưng, khăn đội đầu, hài vải. Áo cánh là loại 4 thân xẻ ngực, cổ tròn, có hai túi nhỏ phía dưới hai vạt trước, thường được cắt may bằng vải chàm hoặc trắng. Khi đi hội thường được mặt lót phía trong áo dài. Vì vậy người Tày còn được gọi là cần slửa khao (người áo trắng) để phân biệt với người Nùng chỉ dùng màu chàm. Áo dài cũng là loại 5 thân, xẻ nách phải cài cúc vải hoặc đồng, cổ tròn ống tay và thân hẹp có eo.

Bộ quần áo của dân tộc Tày bao gồm: khăn, áo, quần, dây lưng, tạp dề, guốc hoặc dép. Phụ nữ Tày thường để tóc dài, đội khăn. Khăn là loại khăn vuông gấp chéo kiểu “mỏ quạ”, đội lên đầu, thắt ở sau gáy, tương tự như kiểu đội khăn mỏ quạ của phụ nữ Kinh.

Áo của phụ nữ thường là loại áo năm thân, trong đó bốn thân dài và một thân hụt nằm ở phía ngực bên phải, xẻ chéo từ dưới cổ sang nách bên phải, áo phụ nữ Tày thường dài đến quá bắp chân, thân áo và tay bó hẹp lấy người.

Trước đây phụ nữ mặc váy, nhưng gần đây phổ biến mặc quần, là quần chân què, cát hình lá tọa, đũng rộng có thể cử động thoải mái trong mọi tư thế lao động. Đồng bào thường đeo thắt lưng được dệt bằng vải thủ công, rộng khoảng 40cm gấp làm tư, chiều dài đủ quấn quanh thân người hai vòng, buộc lại ở phía sau, để buông dải đuôi xuống sau lưng.

Nón của phụ nữ Tày khá độc đáo. Nón bằng nan tre lợp lá có mái nón bằng và rộng. Đồ trang sức được cả nam và nữ thích sử dụng đó là vòng cổ, chân, tay..., trẻ em đeo đồ trang sức bằng bạc để trừ tà ma và tránh gió.

Quần áo nam giới đơn giản hơn áo ngắn, xẻ ngực, cài cúc trước ngực và thường cài 5 cúc. Trang phục của nam giới có quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa, áo ngắn cũng may năm thân, cổ đứng. Nam cũng có áo dài như cái áo ngắn kéo dài vạt xuống quá đầu gối.

Nét đặc sắc trên trang phục người Tày lại được thể hiện ở những mẫu hoa văn trên vải. Sự pha trộn phối màu một cách tinh tế và hợp lí tạo đồ họa trên mặt vải khiến cho trang phục của người Tày trở nên sinh động và ấn tượng.

 Hồng Phượng

Trang phục của người dân tộc Tày với những nét hoa văn hấp dẫn (Mộng Lân)

Một bộ trang phục đơn gainr, nhưng cũng tạo ra nét riêng biệt của nó. Và mang lại cho người mặc vẻ đẹp thuần khiết. Trang Phục của người Tày đơn giản một sắc chàm, nét đặc sắc thể hiện ở những mẫu hoa văn trên vải của họ.

Nhìn chung nười Tày thường mặc quần áo vải bông nhuộm chàm nên trang phục của họ màu chủ đạo là màu chàm, phụ nữ thường chít khăn mỏ quạ, mặc áo năm thân có thắt lưng, đeo vòng cổ, tay, chân bằng bạc.
Loại vải dệt hoa văn mầu đen trên nền vải trắng là loại vải để may mặt chăn, loại hình trang trí này phổ biến trong các dân tộc nói ngôn ngữ Tày-Thái, mà người ta còn dùng một thuật ngữ để gọi đồ án trang trí hoa văn như thế này là lái ăm - có nghĩa là vằn đồ đan, giống như các vằn nổi trên đồ đan. Họa tiết được kỷ hà hóa là chính để thích hợp với việc dệt trên khung dệt.

 Trang phục cổ truyền của người Tày được làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như không có hoa văn trang trí. Không ai rõ nghề dệt thổ cẩm của người dân tộc Tày có từ bao giờ, mà chỉ biết những tấm vải thổ cẩm do chính họ dệt ra từ lâu đã nổi tiếng với những hoa văn đẹp mắt, sặc sỡ, mang đậm sắc thái dân tộc.
Nguyên liệu chính để dệt thổ cẩm là sợi bông nhuộm chàm và tơ tằm nhuộm màu. Tuy nhiên, do giá tơ tằm đắt nên ngày nay người dệt thổ cẩm dùng len có chi phí thấp hơn để thay thế. Quy trình dệt thổ cẩm hoàn toàn thủ công và chính đôi tay khéo léo và sự nhẫn nại của người phụ nữ Tày mà những tấm thổ cẩm nên hình nên dạng vô cùng đặc sắc. Từ những tấm thổ cẩm tự tạo ấy người phụ nữ Tày may thành mặt chăn, mặt địu, khăn trải giường và nhất là những bộ trang phục đặc sắc của dân tộc.

Bố cục họa tiết theo phương pháp ô quả trám có các đường viền xung quanh tạo thành các đường diềm gãy khác. Trong các ô quả trám là họa tiết cách điệu hóa hình họa, hình ngọn rau bầu, bí, là loại cây có liên quan nhiều đến nền văn hóa cổ, tín ngưỡng cổ của nhiều cư dân nông nghiệp ở phía Bắc nước ta, trong đó có người Tày. Các dân tộc Thái, Lào, Lự ở nước ta phát triển loại hình trang trí này rất đa dạng, phong phú.

Trên cơ sở của loại bố cục hoa văn một mầu đen trên nền trắng như thế này, người Tày lại phát triển trang trí theo một hướng khác, gài mầu vào từng đoạn họa tiết, từng mảng họa tiết tùy trình độ thẩm mỹ, ý thích của người dệt trên khung dệt thủ công, có tên gọi là thổ cẩm, mang ý nghĩa là một loại gấm của địa phương.

Thổ cẩm có loại hình vuông để may mặt địu, có thể thức bố cục hoa văn đăng đối tuyệt đối, bao gồm những diềm và hoa văn bỏ ô ở khu vực trung tâm trang trí. Ngoài ô quả trám đã xuất hiện các biến thể như ô hình tám cạnh, hình vuông, hình chữ nhật, tạo cho đồ án trang trí có đường nét cấu tạo phong phú hơn, đa dạng hơn.

Có loại thổ cẩm bố cục hình chữ nhật để làm mặt chăn, màn che. Những tấm màn che mà vị trí là ở các nơi thờ cúng tổ tiên, người ta thể hiện các đề tài liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo, như thêm đường diềm ở phía trên - tương ứng với cõi Trời, có hình các vị thần linh, bảo hộ cho sự sống bình an của con người hoặc thêm đường diềm ở phía dưới - tương ứng với cõi Đất, có hình con ngựa, con chim là những hình tượng biểu trưng cho cuộc sống, cỏ cây, muông thú trên mặt đất như quan niệm về vũ trụ của dân gian.

Ngoài ra, còn có nhiều họa tiết khác nữa, như các chữ Hán-theo kiểu chữ triện, hồi văn phật giáo-chữ Vạn, Hoa đào, Hoa cúc cách điệu, hình mặt trời, ngôi sao tám cánh v.v.

Mầu sắc rực rỡ, sự phối hợp các màu nguyên sắc có độ tương phản cao bên nhau khá mạnh bạo. Có những hòa sắc trầm, dịu, hoặc sáng tươi, các sắc thái khác nhau cho thấy thổ cẩm Tày không gò bó trong quy thức hòa màu hạn chế nào, cho thấy sức sáng tạo phong phú và đa dạng của nghệ nhân nhiều thế hệ, đó cũng là những dấu ấn của sự phát triển trong trang trí dệt dân gian của người Tày để đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống ngày một đa dạng phong phú, về các mặt văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc.

Bố cục hình vuông của thổ cẩm, bố cục hình chữ nhật của loại thổ cẩm làm mặt chăn hoặc màn che có quy định phía trên phía dưới - là những bố cục riêng có trong trang trí dệt của người Tày, mà các dân tộc anh em không có.

Họa tiết được kỷ hà hóa là chính để thích hợp với việc dệt trên khung dệt. Bố cục họa tiết theo phương pháp ô quả trám có các đường viền xung quanh tạo thành các đường diềm gãy khác. Trong các ô quả trám là họa tiết cách điệu hóa hình họa, hình ngọn rau bầu, bí, là loại cây có liên quan nhiều đến nền văn hóa cổ, tín ngưỡng cổ của nhiều cư dân nông nghiệp ở phía Bắc nước ta, trong đó có người Tày. Trên cơ sở của loại bố cục hoa văn một mầu đen trên nền trắng như thế này, người Tày lại phát triển trang trí theo một hướng khác, gài mầu vào từng đoạn họa tiết, từng mảng họa tiết tùy trình độ thẩm mỹ, ý thích của người dệt trên khung dệt thủ công, có tên gọi là thổ cẩm, mang ý nghĩa là một loại gấm của địa phương.

Trên mặt chăn hoặc màn che mà vị trí là ở các nơi thờ cúng tổ tiên, người ta thể hiện các đề tài liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo, như thêm đường diềm ở phía trên - tương ứng với cõi Trời, có hình các vị thần linh, bảo hộ cho sự sống bình an của con người hoặc thêm đường diềm ở phía dưới - tương ứng với cõi Đất, có hình con ngựa, con chim là những hình tượng biểu trưng cho cuộc sống, cỏ cây, muông thú trên mặt đất như quan niệm về vũ trụ của dân gian. Bố cục hình vuông của thổ cẩm, bố cục hình chữ nhật của loại thổ cẩm làm mặt chăn hoặc màn che có quy định phía trên phía dưới - là những bố cục riêng có trong trang trí dệt của người Tày, mà các dân tộc anh em không có.

Ngày nay, trang phục truyền thống Tày vẫn phổ biến nhất là trong các ngày lễ cổ truyền, nhưng áo cánh, áo sơ mi vẫn được nhiều thanh niên mặc, còn trong ngày thường, họ mặc trang phục gần như người Kinh.

Mộng Lân
Một bộ trang phục đơn gainr, nhưng cũng tạo ra nét riêng biệt của nó. Và mang lại cho người mặc vẻ đẹp thuần khiết. Trang Phục của người Tày đơn giản một sắc chàm, nét đặc sắc thể hiện ở những mẫu hoa văn trên vải của họ.

Nhìn chung nười Tày thường mặc quần áo vải bông nhuộm chàm nên trang phục của họ màu chủ đạo là màu chàm, phụ nữ thường chít khăn mỏ quạ, mặc áo năm thân có thắt lưng, đeo vòng cổ, tay, chân bằng bạc.
Loại vải dệt hoa văn mầu đen trên nền vải trắng là loại vải để may mặt chăn, loại hình trang trí này phổ biến trong các dân tộc nói ngôn ngữ Tày-Thái, mà người ta còn dùng một thuật ngữ để gọi đồ án trang trí hoa văn như thế này là lái ăm - có nghĩa là vằn đồ đan, giống như các vằn nổi trên đồ đan. Họa tiết được kỷ hà hóa là chính để thích hợp với việc dệt trên khung dệt.

 Trang phục cổ truyền của người Tày được làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như không có hoa văn trang trí. Không ai rõ nghề dệt thổ cẩm của người dân tộc Tày có từ bao giờ, mà chỉ biết những tấm vải thổ cẩm do chính họ dệt ra từ lâu đã nổi tiếng với những hoa văn đẹp mắt, sặc sỡ, mang đậm sắc thái dân tộc.
Nguyên liệu chính để dệt thổ cẩm là sợi bông nhuộm chàm và tơ tằm nhuộm màu. Tuy nhiên, do giá tơ tằm đắt nên ngày nay người dệt thổ cẩm dùng len có chi phí thấp hơn để thay thế. Quy trình dệt thổ cẩm hoàn toàn thủ công và chính đôi tay khéo léo và sự nhẫn nại của người phụ nữ Tày mà những tấm thổ cẩm nên hình nên dạng vô cùng đặc sắc. Từ những tấm thổ cẩm tự tạo ấy người phụ nữ Tày may thành mặt chăn, mặt địu, khăn trải giường và nhất là những bộ trang phục đặc sắc của dân tộc.

Bố cục họa tiết theo phương pháp ô quả trám có các đường viền xung quanh tạo thành các đường diềm gãy khác. Trong các ô quả trám là họa tiết cách điệu hóa hình họa, hình ngọn rau bầu, bí, là loại cây có liên quan nhiều đến nền văn hóa cổ, tín ngưỡng cổ của nhiều cư dân nông nghiệp ở phía Bắc nước ta, trong đó có người Tày. Các dân tộc Thái, Lào, Lự ở nước ta phát triển loại hình trang trí này rất đa dạng, phong phú.

Trên cơ sở của loại bố cục hoa văn một mầu đen trên nền trắng như thế này, người Tày lại phát triển trang trí theo một hướng khác, gài mầu vào từng đoạn họa tiết, từng mảng họa tiết tùy trình độ thẩm mỹ, ý thích của người dệt trên khung dệt thủ công, có tên gọi là thổ cẩm, mang ý nghĩa là một loại gấm của địa phương.

Thổ cẩm có loại hình vuông để may mặt địu, có thể thức bố cục hoa văn đăng đối tuyệt đối, bao gồm những diềm và hoa văn bỏ ô ở khu vực trung tâm trang trí. Ngoài ô quả trám đã xuất hiện các biến thể như ô hình tám cạnh, hình vuông, hình chữ nhật, tạo cho đồ án trang trí có đường nét cấu tạo phong phú hơn, đa dạng hơn.

Có loại thổ cẩm bố cục hình chữ nhật để làm mặt chăn, màn che. Những tấm màn che mà vị trí là ở các nơi thờ cúng tổ tiên, người ta thể hiện các đề tài liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo, như thêm đường diềm ở phía trên - tương ứng với cõi Trời, có hình các vị thần linh, bảo hộ cho sự sống bình an của con người hoặc thêm đường diềm ở phía dưới - tương ứng với cõi Đất, có hình con ngựa, con chim là những hình tượng biểu trưng cho cuộc sống, cỏ cây, muông thú trên mặt đất như quan niệm về vũ trụ của dân gian.

Ngoài ra, còn có nhiều họa tiết khác nữa, như các chữ Hán-theo kiểu chữ triện, hồi văn phật giáo-chữ Vạn, Hoa đào, Hoa cúc cách điệu, hình mặt trời, ngôi sao tám cánh v.v.

Mầu sắc rực rỡ, sự phối hợp các màu nguyên sắc có độ tương phản cao bên nhau khá mạnh bạo. Có những hòa sắc trầm, dịu, hoặc sáng tươi, các sắc thái khác nhau cho thấy thổ cẩm Tày không gò bó trong quy thức hòa màu hạn chế nào, cho thấy sức sáng tạo phong phú và đa dạng của nghệ nhân nhiều thế hệ, đó cũng là những dấu ấn của sự phát triển trong trang trí dệt dân gian của người Tày để đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống ngày một đa dạng phong phú, về các mặt văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc.

Bố cục hình vuông của thổ cẩm, bố cục hình chữ nhật của loại thổ cẩm làm mặt chăn hoặc màn che có quy định phía trên phía dưới - là những bố cục riêng có trong trang trí dệt của người Tày, mà các dân tộc anh em không có.

Họa tiết được kỷ hà hóa là chính để thích hợp với việc dệt trên khung dệt. Bố cục họa tiết theo phương pháp ô quả trám có các đường viền xung quanh tạo thành các đường diềm gãy khác. Trong các ô quả trám là họa tiết cách điệu hóa hình họa, hình ngọn rau bầu, bí, là loại cây có liên quan nhiều đến nền văn hóa cổ, tín ngưỡng cổ của nhiều cư dân nông nghiệp ở phía Bắc nước ta, trong đó có người Tày. Trên cơ sở của loại bố cục hoa văn một mầu đen trên nền trắng như thế này, người Tày lại phát triển trang trí theo một hướng khác, gài mầu vào từng đoạn họa tiết, từng mảng họa tiết tùy trình độ thẩm mỹ, ý thích của người dệt trên khung dệt thủ công, có tên gọi là thổ cẩm, mang ý nghĩa là một loại gấm của địa phương.

Trên mặt chăn hoặc màn che mà vị trí là ở các nơi thờ cúng tổ tiên, người ta thể hiện các đề tài liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo, như thêm đường diềm ở phía trên - tương ứng với cõi Trời, có hình các vị thần linh, bảo hộ cho sự sống bình an của con người hoặc thêm đường diềm ở phía dưới - tương ứng với cõi Đất, có hình con ngựa, con chim là những hình tượng biểu trưng cho cuộc sống, cỏ cây, muông thú trên mặt đất như quan niệm về vũ trụ của dân gian. Bố cục hình vuông của thổ cẩm, bố cục hình chữ nhật của loại thổ cẩm làm mặt chăn hoặc màn che có quy định phía trên phía dưới - là những bố cục riêng có trong trang trí dệt của người Tày, mà các dân tộc anh em không có.

Ngày nay, trang phục truyền thống Tày vẫn phổ biến nhất là trong các ngày lễ cổ truyền, nhưng áo cánh, áo sơ mi vẫn được nhiều thanh niên mặc, còn trong ngày thường, họ mặc trang phục gần như người Kinh.

Mộng Lân

Nhà sàn truyền thống của người Tày ở Đông Bắc Việt Nam (Sơn Anh)

Cuốn sách Nhà sàn truyền thống của người Tày ở Đông Bắc Việt Nam của tác giả Ma Ngọc Dung được Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 2004 đã giới thiệu với độc giả những nét đặc trưng, nghệ thuật kiến trúc độc đáo nhà sàn của người Tày vùng Đông Bắc.
Tác giả đã mô tả khá chi tiết về nguồn nguyên liệu làm nhà, cấu trúc chung ngôi nhà sàn của người Tày, quy trình làm một ngôi nhà sàn, những điều kiêng kỵ liên quan đến ngôi nhà sàn... giúp người đọc hình dung khá rõ về tập quán sinh hoạt của người Tày trong ngôi nhà sàn.

Tác giả đã có sự đánh giá tương đối tổng quát về những đặc trưng văn hóa của người dân vùng Đông Bắc, trong đó nhà sàn của người Tày là một biểu tượng độc đáo gắn liền với đời sống sinh hoạt tín ngưỡng của người Tày. Người Tày rất coi trọng ngôi nhà sàn, không chỉ là nơi ở có khả năng chống thú dữ và tạo năng lượng sống cho con người mà đó còn là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng thiêng liêng. Do đó, người Tày thường có những kiêng kỵ liên quan đến ngôi nhà sàn. Những kiêng kỵ đó vừa mang tính tâm linh nhưng cũng rất khoa học, rất đúng về quan hệ đạo đức xã hội. Trong việc chọn cây làm nhà, người Tày luôn kiêng sử dụng các loại cây cụt ngọn, cây sâu gốc, cây có tổ kiến, nhất là chọn cây làm cột cái và chọn cây để chẻ lạt buộc dui mè lợp mái. Điều này được lý giải rằng, cây cụt ngọn, sâu gốc là cây yếu, gỗ không tốt khi làm nhà sẽ không bền  lâu, khó chống chọi được với thiên nhiên khắc nghiệt. Cây nứa, tre mà cụt ngọn sẽ rất giòn, làm lạt buộc không nên. Hơn nữa, cây mà cụt ngọt khác gì nhà không có nóc mà nhà không có nóc thì tôn ti trật tự còn đâu. Cây sâu gốc thì không vững bền, gia chủ khó bề làm ăn. Trong sinh hoạt hàng ngày do đã có sự phân chia khu vực riêng trong ngôi nhà sàn cho từng đối tượng, nhất là đối với phụ nữ nên không ai được vi phạm. Người Tày không cho phép đàn ông (trừ người chồng) được phép vào buồng của phụ nữ để tránh những điều tiếng không đáng có...

Người Tày thường rất kỹ lưỡng trong việc chọn hướng làm nhà. Nhà sàn bao giờ cũng tựa lưng vào núi, hướng ra sông, suối. Mỗi nhà sàn được cấu tạo khuôn viên riêng, trong khuôn viên có một nhà chính, có sàn phơi, nhà kho. Nhà sàn của người Tày thường lợp bằng cỏ gianh, nứa, lá cọ hoặc ngói tùy vào điều kiện của mỗi gia đình. Trong khuôn viên chỉ có một cổng duy nhất ở phía chái chính. Xét về cấu trúc chung, nhà sàn của người Tày thường có 5 gian, 3 gian hoặc 1 gian hai chái, mái chéo hình lưỡi rìu, thấp so với mặt sàn. Xung quanh sàn nhà bưng kín bằng tre, nứa hoặc ván gỗ, ít cửa sổ. Bộ vì kèo 3, 5, 7 cột kê hoặc những biến thể 2, 4, 6 cột. Cấu trúc mặt bằng chung được chia làm 5 phần chính, lấy bếp sinh hoạt giữa nhà làm trung tâm... Nhà sàn Tày ở huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang được chia theo chiều ngang, các khu vực sinh hoạt được bố trí theo nguyên tắc phía ngoài của nam giới, phía trong của nữ giới. Tuy nhiên, về cấu trúc khung nhà ở Chiêm Hóa có phần cải tiến, bộ vì kèo 6 cột cải biến từ 7 cột chốn 1, mái nhà cao, cửa sổ rộng, gầm sàn thoáng, không nhốt gia súc. Sự cải biến này khiến nhiều người cho đó là điển hình của ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày bởi có sự cách tân nhưng vẫn giữ được những nét cơ bản của ngôi nhà sàn truyền thống.

Cuốn sách thực sự hữu ích đối với việc bảo tồn giá trị kiến trúc nhà sàn của người Tày trong sự nghiệp đổi mới. Đặc biệt, hiện nay trước yêu cầu của công tác bảo vệ rừng thì phát triển nhà sàn của người Tày theo kết cấu bê tông là rất cần thiết nhưng vẫn giữ được nét truyền thống, tạo không gian sinh hoạt văn hóa bản sắc vẫn được người Tày ở các địa phương đón nhận.     
Sơn Anh
Cuốn sách Nhà sàn truyền thống của người Tày ở Đông Bắc Việt Nam của tác giả Ma Ngọc Dung được Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 2004 đã giới thiệu với độc giả những nét đặc trưng, nghệ thuật kiến trúc độc đáo nhà sàn của người Tày vùng Đông Bắc.
Tác giả đã mô tả khá chi tiết về nguồn nguyên liệu làm nhà, cấu trúc chung ngôi nhà sàn của người Tày, quy trình làm một ngôi nhà sàn, những điều kiêng kỵ liên quan đến ngôi nhà sàn... giúp người đọc hình dung khá rõ về tập quán sinh hoạt của người Tày trong ngôi nhà sàn.

Tác giả đã có sự đánh giá tương đối tổng quát về những đặc trưng văn hóa của người dân vùng Đông Bắc, trong đó nhà sàn của người Tày là một biểu tượng độc đáo gắn liền với đời sống sinh hoạt tín ngưỡng của người Tày. Người Tày rất coi trọng ngôi nhà sàn, không chỉ là nơi ở có khả năng chống thú dữ và tạo năng lượng sống cho con người mà đó còn là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng thiêng liêng. Do đó, người Tày thường có những kiêng kỵ liên quan đến ngôi nhà sàn. Những kiêng kỵ đó vừa mang tính tâm linh nhưng cũng rất khoa học, rất đúng về quan hệ đạo đức xã hội. Trong việc chọn cây làm nhà, người Tày luôn kiêng sử dụng các loại cây cụt ngọn, cây sâu gốc, cây có tổ kiến, nhất là chọn cây làm cột cái và chọn cây để chẻ lạt buộc dui mè lợp mái. Điều này được lý giải rằng, cây cụt ngọn, sâu gốc là cây yếu, gỗ không tốt khi làm nhà sẽ không bền  lâu, khó chống chọi được với thiên nhiên khắc nghiệt. Cây nứa, tre mà cụt ngọn sẽ rất giòn, làm lạt buộc không nên. Hơn nữa, cây mà cụt ngọt khác gì nhà không có nóc mà nhà không có nóc thì tôn ti trật tự còn đâu. Cây sâu gốc thì không vững bền, gia chủ khó bề làm ăn. Trong sinh hoạt hàng ngày do đã có sự phân chia khu vực riêng trong ngôi nhà sàn cho từng đối tượng, nhất là đối với phụ nữ nên không ai được vi phạm. Người Tày không cho phép đàn ông (trừ người chồng) được phép vào buồng của phụ nữ để tránh những điều tiếng không đáng có...

Người Tày thường rất kỹ lưỡng trong việc chọn hướng làm nhà. Nhà sàn bao giờ cũng tựa lưng vào núi, hướng ra sông, suối. Mỗi nhà sàn được cấu tạo khuôn viên riêng, trong khuôn viên có một nhà chính, có sàn phơi, nhà kho. Nhà sàn của người Tày thường lợp bằng cỏ gianh, nứa, lá cọ hoặc ngói tùy vào điều kiện của mỗi gia đình. Trong khuôn viên chỉ có một cổng duy nhất ở phía chái chính. Xét về cấu trúc chung, nhà sàn của người Tày thường có 5 gian, 3 gian hoặc 1 gian hai chái, mái chéo hình lưỡi rìu, thấp so với mặt sàn. Xung quanh sàn nhà bưng kín bằng tre, nứa hoặc ván gỗ, ít cửa sổ. Bộ vì kèo 3, 5, 7 cột kê hoặc những biến thể 2, 4, 6 cột. Cấu trúc mặt bằng chung được chia làm 5 phần chính, lấy bếp sinh hoạt giữa nhà làm trung tâm... Nhà sàn Tày ở huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang được chia theo chiều ngang, các khu vực sinh hoạt được bố trí theo nguyên tắc phía ngoài của nam giới, phía trong của nữ giới. Tuy nhiên, về cấu trúc khung nhà ở Chiêm Hóa có phần cải tiến, bộ vì kèo 6 cột cải biến từ 7 cột chốn 1, mái nhà cao, cửa sổ rộng, gầm sàn thoáng, không nhốt gia súc. Sự cải biến này khiến nhiều người cho đó là điển hình của ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày bởi có sự cách tân nhưng vẫn giữ được những nét cơ bản của ngôi nhà sàn truyền thống.

Cuốn sách thực sự hữu ích đối với việc bảo tồn giá trị kiến trúc nhà sàn của người Tày trong sự nghiệp đổi mới. Đặc biệt, hiện nay trước yêu cầu của công tác bảo vệ rừng thì phát triển nhà sàn của người Tày theo kết cấu bê tông là rất cần thiết nhưng vẫn giữ được nét truyền thống, tạo không gian sinh hoạt văn hóa bản sắc vẫn được người Tày ở các địa phương đón nhận.     
Sơn Anh

Độc đáo kiến trúc nhà sàn dân tộc Tày ở Lào Cai (Hồng Hải)

Xã Nghĩa Đô (huyện Bảo Yên - Lào Cai) có trên 900 gia đình dân tộc Tày thì hiện nay vẫn còn đến 700 ngôi nhà sàn truyền thống. Nhà sàn thể hiện nét độc đáo trong văn hoá kiến trúc dân tộc Tày, là thước đo không chỉ đánh giá sự giàu có mà còn là căn cứ để xác định đâu là người Tày cư trú lâu đời nhất vùng.

Nằm ở vị trí Đông Bắc của huyện Bảo Yên, Nghĩa Đô cách trung tâm Phố Ràng 30km theo trục quốc lộ 279, nơi đây có 6 dân tộc cư trú gồm: Tày, Nùng, Kinh, Phù lá, Mông, Dao, trong đó dân tộc Tày là những cư dân đến định cư sớm nhất, có dân số đông và văn  hoá Tày cũng là văn hoá chủ đạo, mang đặc trưng của vùng đất Nghĩa Đô. Không giống với phương cách sống du canh du cư của nhiều dân tộc thiểu số khác, người Tày luôn có tư tưởng ổn định về nơi ở, từ đó mới tính chuyện làm nương trồng ngô lúa. Từ quan niệm đó đã hình thành nên nét độc đáo trong văn hoá kiến trúc nhà sàn. Ngôi nhà sàn không chỉ là nơi cư ngụ truyền đời của gia đình, dòng họ người Tày mà còn là cái nôi diễn ra các sinh hoạt văn hoá truyền thống như tục trọc sàn leo cột của những đôi nam nữ yêu nhau, các hình thức diễn xướng dân gian như hát giao duyên, múa dệt cửi, nhặt trám, hát nôm Tày, là nới trú ngụ và thờ cúng tổ tiên, v.v…

Nét độc đáo trong kiến trúc nhà sàn dân tộc Tày - Nghĩa Đô trước hết thể hiện ở những kiểu nhà. Hiện nay kiến trúc nhà sàn dân tộc Tày nơi đây tồn tại 4 kiểu khác nhau gồm: nhà Lều - là loại nhà có kết cấu đơn giản và sơ khai nhất của người Tày; nhà Quan ma là loại nhà sàn thường có 4 gian với đặc điểm cột được chôn sâu xuống đât, được biến thể từ kiểu nhà lều nhằm bảo vệ con người và vật nuôi khỏi thú dữ; nhà Cai tư là kiểu nhà biến thể tiếp của nhà Quan ma với đặc điểm thường có 5 gian (3 gian chính và 2 gian trái), cột nhà được kê bằng đá tảng; Nhà Con thong là loại nhà phổ biến nhất hiện nay. Ngôi nhà Con thong có tính năng vượt trội so với các kiểu nhà trước đó là không phải dùng nhiều cột gỗ to mà chỉ dùng 8 cột chính và 16 cột quân, diện tích sử dụng nhà rộng rãi hơn nhà Cai tư rất nhiều. Về kiểu dáng thì nhà Con thong cơ bản vẫn giống như nhà Cai tư, nhưng có thêm một hành lang chạy dọc theo sàn nhà, làm cho ngôi nhà bên cạnh sự vững chãi vẫn có vóc dáng mềm mại, có tính thẩm mỹ cao.

Cầu thang lên nhà sàn làm bằng gỗ và thường có 9 bậc, mỗi bậc tượng trưng cho một vía của người phụ nữ Tày. Khi đón khách quý, chủ nhà phải xuống tận chân cầu thang chào mời khách lên nhà, khi khách lên cầu thang chủ nhà cũng phải đi sau để bảo vệ và hướng dẫn cho khách.

Nghệ thuật bài trí trong nhà sàn cũng mang nhiều nét đặc trưng riêng cho văn hoá Tày - Nghĩa Đô. Nhà sàn người Tày thường đặt 3 bếp: một bếp đặt ở gian chính giữa ngôi nhà, đây là bếp chính dùng để tiếp khách và là nơi giữ lửa cho tất cả các bếp khác cũng như sưởi ấm cho cả gia đình; bếp thứ hai được đặt cạnh giường của người già với mục đích giữ ấm trong mùa đông; bếp cuối cùng dùng để chế biến thức ăn, bếp này thường được dựng ở một gian riêng. Bên cạnh đó, người Tày cũng thờ ma bếp ở ngay góc bếp hoặc cắm ống nhang vào bức vách thẳng khuôn bếp nhưng về vách phía sau gọi là “sỏi lội”.

Một nét độc đáo nữa trong cấu trúc ngôi nhà sàn người Tày nơi đây là phong tục dựng nhà theo thỏi (tức dòng dõi, nguồn gốc xuất xứ). Điều này liên quan đến nguồn gốc của người Tày - Nghĩa Đô từ xa xưa khi mới đến định cư sinh sống tại vùng đất này. Ông Ma Thanh Sợi - nghệ nhân dân gian dân tộc Tày ở Nghĩa Đô cho biết: Theo truyền thuyết, xưa kia khi nhóm người Tày từ phía Đông Bắc di cư đến đất Nghĩa Đô, họ muốn dừng lại để sinh sống nên phải lần theo ngọn cây về ở dưới gốc cây, sau chặt phá cây làm lều lán, dựng nhà cửa để ở. Về sau xây dựng thành thỏi, thỏi ấy có một tập quán là vào ngọn ở gốc. Họ đặt ra một quy định là nhà ở chỉ có một cửa ra vào ở đầu cầu thang lên xuống. Đi lên hết cầu thang bước vào cửa nhà, đi sâu vào trong nhà để ở. Từ đấy tất cả vật liệu để làm nhà bằng tre, nứa, gỗ... đều lấy đầu ngọn quay về cửa ra vào (vào ngọn, ở gốc). Những dân tộc khác đến sau cũng học cách là nhà sàn của dân tộc Tày nhưng các vật liệu để làm nhà lại quay gốc ra phía cầu thang để phân biệt mình là người đến sau. Đặc điểm này làm nên nét đặc trưng rất riêng biệt trong văn hoá dựng nhà của người Tày – Nghĩa Đô so với các dân tộc khác.

Trải qua sự phát triển hàng thế kỷ, người Tày - Nghĩa Đô vẫn không ngừng sáng tạo để cải tiến ngôi nhà của mình sao cho nó phù hợp với điều kiện tự nhiên cũng như cuộc sống lao động sản xuất nông nghiệp nhưng vẫn không quên gìn giữ những nét đặc trưng truyền thống. Chính điều này đã tạo dựng nên một phong cách riêng của dân tộc Tày được thể hiện trước hết trong nghệ thuật kiến trúc nhà sàn.

 Hồng Hải
Xã Nghĩa Đô (huyện Bảo Yên - Lào Cai) có trên 900 gia đình dân tộc Tày thì hiện nay vẫn còn đến 700 ngôi nhà sàn truyền thống. Nhà sàn thể hiện nét độc đáo trong văn hoá kiến trúc dân tộc Tày, là thước đo không chỉ đánh giá sự giàu có mà còn là căn cứ để xác định đâu là người Tày cư trú lâu đời nhất vùng.

Nằm ở vị trí Đông Bắc của huyện Bảo Yên, Nghĩa Đô cách trung tâm Phố Ràng 30km theo trục quốc lộ 279, nơi đây có 6 dân tộc cư trú gồm: Tày, Nùng, Kinh, Phù lá, Mông, Dao, trong đó dân tộc Tày là những cư dân đến định cư sớm nhất, có dân số đông và văn  hoá Tày cũng là văn hoá chủ đạo, mang đặc trưng của vùng đất Nghĩa Đô. Không giống với phương cách sống du canh du cư của nhiều dân tộc thiểu số khác, người Tày luôn có tư tưởng ổn định về nơi ở, từ đó mới tính chuyện làm nương trồng ngô lúa. Từ quan niệm đó đã hình thành nên nét độc đáo trong văn hoá kiến trúc nhà sàn. Ngôi nhà sàn không chỉ là nơi cư ngụ truyền đời của gia đình, dòng họ người Tày mà còn là cái nôi diễn ra các sinh hoạt văn hoá truyền thống như tục trọc sàn leo cột của những đôi nam nữ yêu nhau, các hình thức diễn xướng dân gian như hát giao duyên, múa dệt cửi, nhặt trám, hát nôm Tày, là nới trú ngụ và thờ cúng tổ tiên, v.v…

Nét độc đáo trong kiến trúc nhà sàn dân tộc Tày - Nghĩa Đô trước hết thể hiện ở những kiểu nhà. Hiện nay kiến trúc nhà sàn dân tộc Tày nơi đây tồn tại 4 kiểu khác nhau gồm: nhà Lều - là loại nhà có kết cấu đơn giản và sơ khai nhất của người Tày; nhà Quan ma là loại nhà sàn thường có 4 gian với đặc điểm cột được chôn sâu xuống đât, được biến thể từ kiểu nhà lều nhằm bảo vệ con người và vật nuôi khỏi thú dữ; nhà Cai tư là kiểu nhà biến thể tiếp của nhà Quan ma với đặc điểm thường có 5 gian (3 gian chính và 2 gian trái), cột nhà được kê bằng đá tảng; Nhà Con thong là loại nhà phổ biến nhất hiện nay. Ngôi nhà Con thong có tính năng vượt trội so với các kiểu nhà trước đó là không phải dùng nhiều cột gỗ to mà chỉ dùng 8 cột chính và 16 cột quân, diện tích sử dụng nhà rộng rãi hơn nhà Cai tư rất nhiều. Về kiểu dáng thì nhà Con thong cơ bản vẫn giống như nhà Cai tư, nhưng có thêm một hành lang chạy dọc theo sàn nhà, làm cho ngôi nhà bên cạnh sự vững chãi vẫn có vóc dáng mềm mại, có tính thẩm mỹ cao.

Cầu thang lên nhà sàn làm bằng gỗ và thường có 9 bậc, mỗi bậc tượng trưng cho một vía của người phụ nữ Tày. Khi đón khách quý, chủ nhà phải xuống tận chân cầu thang chào mời khách lên nhà, khi khách lên cầu thang chủ nhà cũng phải đi sau để bảo vệ và hướng dẫn cho khách.

Nghệ thuật bài trí trong nhà sàn cũng mang nhiều nét đặc trưng riêng cho văn hoá Tày - Nghĩa Đô. Nhà sàn người Tày thường đặt 3 bếp: một bếp đặt ở gian chính giữa ngôi nhà, đây là bếp chính dùng để tiếp khách và là nơi giữ lửa cho tất cả các bếp khác cũng như sưởi ấm cho cả gia đình; bếp thứ hai được đặt cạnh giường của người già với mục đích giữ ấm trong mùa đông; bếp cuối cùng dùng để chế biến thức ăn, bếp này thường được dựng ở một gian riêng. Bên cạnh đó, người Tày cũng thờ ma bếp ở ngay góc bếp hoặc cắm ống nhang vào bức vách thẳng khuôn bếp nhưng về vách phía sau gọi là “sỏi lội”.

Một nét độc đáo nữa trong cấu trúc ngôi nhà sàn người Tày nơi đây là phong tục dựng nhà theo thỏi (tức dòng dõi, nguồn gốc xuất xứ). Điều này liên quan đến nguồn gốc của người Tày - Nghĩa Đô từ xa xưa khi mới đến định cư sinh sống tại vùng đất này. Ông Ma Thanh Sợi - nghệ nhân dân gian dân tộc Tày ở Nghĩa Đô cho biết: Theo truyền thuyết, xưa kia khi nhóm người Tày từ phía Đông Bắc di cư đến đất Nghĩa Đô, họ muốn dừng lại để sinh sống nên phải lần theo ngọn cây về ở dưới gốc cây, sau chặt phá cây làm lều lán, dựng nhà cửa để ở. Về sau xây dựng thành thỏi, thỏi ấy có một tập quán là vào ngọn ở gốc. Họ đặt ra một quy định là nhà ở chỉ có một cửa ra vào ở đầu cầu thang lên xuống. Đi lên hết cầu thang bước vào cửa nhà, đi sâu vào trong nhà để ở. Từ đấy tất cả vật liệu để làm nhà bằng tre, nứa, gỗ... đều lấy đầu ngọn quay về cửa ra vào (vào ngọn, ở gốc). Những dân tộc khác đến sau cũng học cách là nhà sàn của dân tộc Tày nhưng các vật liệu để làm nhà lại quay gốc ra phía cầu thang để phân biệt mình là người đến sau. Đặc điểm này làm nên nét đặc trưng rất riêng biệt trong văn hoá dựng nhà của người Tày – Nghĩa Đô so với các dân tộc khác.

Trải qua sự phát triển hàng thế kỷ, người Tày - Nghĩa Đô vẫn không ngừng sáng tạo để cải tiến ngôi nhà của mình sao cho nó phù hợp với điều kiện tự nhiên cũng như cuộc sống lao động sản xuất nông nghiệp nhưng vẫn không quên gìn giữ những nét đặc trưng truyền thống. Chính điều này đã tạo dựng nên một phong cách riêng của dân tộc Tày được thể hiện trước hết trong nghệ thuật kiến trúc nhà sàn.

 Hồng Hải

Kiến trúc nhà sàn của người Tày Đông hồ (Anh Thư)

Nhà sàn là loại hình kiến trúc độc đáo và chủ yếu của người Lạc Việt xưa. Qua bao đời truyền lại, ngôi nhà sàn vẫn luôn là người bạn gắn bó thân thiết trong đời sống của nhiều cộng đồng dân tộc như: Thái, Mường, Cao Lan, Khơ Mú, Tày, Nùng…

Cầu thang nhà sàn người Tày.
Sự ra đời của kiến trúc nhà sàn cũng rất đặc biệt. Nó bắt nguồn từ sự tích thần Rùa đã dạy cho con người cách dựa vào hình dáng của thần mà làm nhà. Yên Bái - nơi có tới 30 dân tộc cùng sinh sống nên cũng có rất nhiều kiểu kiến trúc nhà sàn khác nhau, tạo nên những sắc thái văn hóa đa dạng và phong phú, trong đó kiến trúc nhà sàn của người Tày vùng Đông hồ lại mang nét độc đáo riêng.

Đông hồ là vùng đất trù phú, giàu bản sắc văn hoá bên tả ngạn sông Chảy. Đây cũng là nơi sinh sống, quần tụ bao đời nay của nhiều cộng đồng dân tộc, trong đó đông nhất là dân tộc Tày.

Với kho tàng văn hoá dân gian phong phú và tập tục có nhiều nét đặc trưng còn lưu giữ được như trường ca Khảm hải, lễ hội Lồng tồng, những điệu xòe cổ, những bài khắp, cọi, lượn, si mượt mà, tình tứ…, trang phục với khăn, váy, áo nhuộm chàm…, người Tày đã chứng tỏ họ là những cư dân bản địa lâu đời và là một trong những dân tộc có mặt đầu tiên ở vùng sông Chảy. Giữa màu xanh thiên nhiên núi rừng, những nếp nhà sàn người Tày vẫn tồn tại như một minh chứng rõ nét nhất về sức sống lâu bền của văn hóa Tày Đông hồ truyền thống.

Nhà sàn của người Tày Đông hồ là một không gian văn hóa rất đặc biệt. Cầu thang giữ một vai trò quan trọng không thể thiếu. Trong đời sống tâm linh của người Tày Đông hồ, 7 hay 9 bậc cầu thang là sự thể hiện số lượng con vía. Vía chính là sợi dây nối sự sống và cái chết của con người. Bởi vậy, bậc cầu thang chính là cầu nối giữa hai thế giới bên trong và bên ngoài của ngôi nhà.

Số lượng bậc thang có thể khác nhau; vị trí cầu thang cũng có thể ở bên phải hoặc bên trái ngôi nhà (tuỳ theo thế đất, vị trí dựng nhà) nhưng số bậc cầu thang nhất định phải là số lẻ. Khi bước lên sàn ngôi nhà của người Tày Đông hồ, bạn sẽ thấy ngay một ban thờ nhỏ đặt trang trọng hướng ra phía trước ngôi nhà. Đó chính là ban thờ ông tổ bảy đời của người Tày Đông hồ và trong quan niệm tâm linh của họ thì những người đời trước khi mất đi sẽ trở thành người canh cửa, bảo vệ cho con cháu khỏi những điều xấu từ bên ngoài vào.

Chái ngoài gần cửa vào là nơi tiếp khách. Bao giờ chủ nhà cũng ngồi ở phía trên cùng, bên trong, vừa để tiện rót nước, vừa tiện bao quát cả không gian ngôi nhà. Nhà sàn của người Tày Đông hồ có rất nhiều cửa sổ. Thường là dãy cửa sổ nối tiếp nhau chạy bao quanh ngôi nhà. Những cửa sổ này vừa để đón gió, vừa mang ánh sáng vào khắp không gian.

Trước kia các cửa sổ thường làm bằng phên liếp (chống lên, hạ xuống) còn ngày nay, khi điều kiện vật chất đã khá hơn thì các cửa sổ được thay bằng khung gỗ. Hệ thống cửa sổ này cùng với các chấn song đã tạo thành vách nhà nên có thể nói ngôi nhà sàn của người Tày Đông hồ rất thoáng mát và chan hoà với thiên nhiên. Dát nhà cũng tạo nên sự thoáng mát bởi vật liệu được làm chủ yếu từ tre, bương, có khi làm bằng gỗ với những nhà có điều kiện.

Trong ngôi nhà sàn của người Tày Đông hồ, bốn cột ở gian chính giữa được gọi là cột cái bởi chúng là những cột to nhất và giữ vai trò trụ cột. Nhưng điều đặc biệt là bốn cột này không bao giờ được làm từ cùng một loại gỗ mà ít nhất là từ hai loại trở lên. Gian chính là nơi quan trọng nhất trong ngôi nhà sàn người Tày Đông hồ.

Ban thờ tổ tiên luôn có vị trí trang trọng nhất ở gian chính và lúc nào cũng phải đặt cùng phía với cầu thang lên nhà. Đây là một nét độc đáo riêng biệt so với kiến trúc nhà sàn của các dân tộc khác. Chính vì vị trí ban thờ như vậy nên người Tày Đông hồ không bao giờ bố trí buồng ngủ ở ngay gian chính.

Một nét độc đáo nữa là trên xà ở chái ngoài hoặc gian chính của bất cứ ngôi nhà sàn người Tày Đông hồ nào cũng có một bồ vía. Bồ vía trông giống như bồ đựng thóc thu nhỏ (chiều cao 20cm còn đường kính khoảng 15cm), trên đó có treo 7 hoặc 9 chiếc giỏ nhỏ xíu. Người Tày Đông hồ quan niệm rằng, nếu như bồ thóc nuôi sống thể xác thì bồ vía chính là nơi lưu giữ các con vía, nuôi vía cho khoẻ mạnh, không đi đâu xa… để những người sống trong ngôi nhà ấy luôn được dồi dào sức khỏe.

Gian chính còn là nơi cả gia đình quây quần tụ họp đông đủ, cùng ngồi trò chuyện hoặc sum vầy bên mâm cơm ấm cúng. Trước kia, giữa gian chính là một bếp lửa. Bếp lửa hồng giữa nhà như trái tim nuôi dưỡng và sưởi ấm cả về vật chất và tinh thần cho mọi người trong gia đình nhưng ngày nay, để tiện cho sinh hoạt thì bếp lửa đã có một vị trí mới ở khu bếp riêng ngay cạnh chái nhà trong cùng. Trước kia ngôi nhà sàn của người Tày Đông hồ còn có sạp nước và sạp phơi bên cạnh chái nhà hoặc cạnh mặt sau nhà nhưng hiện nay đa phần nhà nào cũng có khu sinh hoạt và sân phơi riêng biệt, không gắn liền với nhà chính như kiểu kiến trúc trước đây.

Hiện nay cũng không còn nhiều nhà giữ được máng nước ngay đầu hồi cầu thang lên sàn… nhưng ngôi nhà sàn của người Tày Đông hồ vẫn luôn là tài sản vô giá - một nét đẹp độc đáo cần được gìn giữ và phát huy. Trong sự đổi thay của cuộc sống ngày càng hiện đại hơn, những mái nhà sàn thấp thoáng, những bản làng không bao giờ ngớt lời khắp, cọi da diết… sẽ là nơi để mọi người tìm về với những nét đẹp vốn có bao đời nay của cha ông.

Anh Thư 
Nhà sàn là loại hình kiến trúc độc đáo và chủ yếu của người Lạc Việt xưa. Qua bao đời truyền lại, ngôi nhà sàn vẫn luôn là người bạn gắn bó thân thiết trong đời sống của nhiều cộng đồng dân tộc như: Thái, Mường, Cao Lan, Khơ Mú, Tày, Nùng…

Cầu thang nhà sàn người Tày.
Sự ra đời của kiến trúc nhà sàn cũng rất đặc biệt. Nó bắt nguồn từ sự tích thần Rùa đã dạy cho con người cách dựa vào hình dáng của thần mà làm nhà. Yên Bái - nơi có tới 30 dân tộc cùng sinh sống nên cũng có rất nhiều kiểu kiến trúc nhà sàn khác nhau, tạo nên những sắc thái văn hóa đa dạng và phong phú, trong đó kiến trúc nhà sàn của người Tày vùng Đông hồ lại mang nét độc đáo riêng.

Đông hồ là vùng đất trù phú, giàu bản sắc văn hoá bên tả ngạn sông Chảy. Đây cũng là nơi sinh sống, quần tụ bao đời nay của nhiều cộng đồng dân tộc, trong đó đông nhất là dân tộc Tày.

Với kho tàng văn hoá dân gian phong phú và tập tục có nhiều nét đặc trưng còn lưu giữ được như trường ca Khảm hải, lễ hội Lồng tồng, những điệu xòe cổ, những bài khắp, cọi, lượn, si mượt mà, tình tứ…, trang phục với khăn, váy, áo nhuộm chàm…, người Tày đã chứng tỏ họ là những cư dân bản địa lâu đời và là một trong những dân tộc có mặt đầu tiên ở vùng sông Chảy. Giữa màu xanh thiên nhiên núi rừng, những nếp nhà sàn người Tày vẫn tồn tại như một minh chứng rõ nét nhất về sức sống lâu bền của văn hóa Tày Đông hồ truyền thống.

Nhà sàn của người Tày Đông hồ là một không gian văn hóa rất đặc biệt. Cầu thang giữ một vai trò quan trọng không thể thiếu. Trong đời sống tâm linh của người Tày Đông hồ, 7 hay 9 bậc cầu thang là sự thể hiện số lượng con vía. Vía chính là sợi dây nối sự sống và cái chết của con người. Bởi vậy, bậc cầu thang chính là cầu nối giữa hai thế giới bên trong và bên ngoài của ngôi nhà.

Số lượng bậc thang có thể khác nhau; vị trí cầu thang cũng có thể ở bên phải hoặc bên trái ngôi nhà (tuỳ theo thế đất, vị trí dựng nhà) nhưng số bậc cầu thang nhất định phải là số lẻ. Khi bước lên sàn ngôi nhà của người Tày Đông hồ, bạn sẽ thấy ngay một ban thờ nhỏ đặt trang trọng hướng ra phía trước ngôi nhà. Đó chính là ban thờ ông tổ bảy đời của người Tày Đông hồ và trong quan niệm tâm linh của họ thì những người đời trước khi mất đi sẽ trở thành người canh cửa, bảo vệ cho con cháu khỏi những điều xấu từ bên ngoài vào.

Chái ngoài gần cửa vào là nơi tiếp khách. Bao giờ chủ nhà cũng ngồi ở phía trên cùng, bên trong, vừa để tiện rót nước, vừa tiện bao quát cả không gian ngôi nhà. Nhà sàn của người Tày Đông hồ có rất nhiều cửa sổ. Thường là dãy cửa sổ nối tiếp nhau chạy bao quanh ngôi nhà. Những cửa sổ này vừa để đón gió, vừa mang ánh sáng vào khắp không gian.

Trước kia các cửa sổ thường làm bằng phên liếp (chống lên, hạ xuống) còn ngày nay, khi điều kiện vật chất đã khá hơn thì các cửa sổ được thay bằng khung gỗ. Hệ thống cửa sổ này cùng với các chấn song đã tạo thành vách nhà nên có thể nói ngôi nhà sàn của người Tày Đông hồ rất thoáng mát và chan hoà với thiên nhiên. Dát nhà cũng tạo nên sự thoáng mát bởi vật liệu được làm chủ yếu từ tre, bương, có khi làm bằng gỗ với những nhà có điều kiện.

Trong ngôi nhà sàn của người Tày Đông hồ, bốn cột ở gian chính giữa được gọi là cột cái bởi chúng là những cột to nhất và giữ vai trò trụ cột. Nhưng điều đặc biệt là bốn cột này không bao giờ được làm từ cùng một loại gỗ mà ít nhất là từ hai loại trở lên. Gian chính là nơi quan trọng nhất trong ngôi nhà sàn người Tày Đông hồ.

Ban thờ tổ tiên luôn có vị trí trang trọng nhất ở gian chính và lúc nào cũng phải đặt cùng phía với cầu thang lên nhà. Đây là một nét độc đáo riêng biệt so với kiến trúc nhà sàn của các dân tộc khác. Chính vì vị trí ban thờ như vậy nên người Tày Đông hồ không bao giờ bố trí buồng ngủ ở ngay gian chính.

Một nét độc đáo nữa là trên xà ở chái ngoài hoặc gian chính của bất cứ ngôi nhà sàn người Tày Đông hồ nào cũng có một bồ vía. Bồ vía trông giống như bồ đựng thóc thu nhỏ (chiều cao 20cm còn đường kính khoảng 15cm), trên đó có treo 7 hoặc 9 chiếc giỏ nhỏ xíu. Người Tày Đông hồ quan niệm rằng, nếu như bồ thóc nuôi sống thể xác thì bồ vía chính là nơi lưu giữ các con vía, nuôi vía cho khoẻ mạnh, không đi đâu xa… để những người sống trong ngôi nhà ấy luôn được dồi dào sức khỏe.

Gian chính còn là nơi cả gia đình quây quần tụ họp đông đủ, cùng ngồi trò chuyện hoặc sum vầy bên mâm cơm ấm cúng. Trước kia, giữa gian chính là một bếp lửa. Bếp lửa hồng giữa nhà như trái tim nuôi dưỡng và sưởi ấm cả về vật chất và tinh thần cho mọi người trong gia đình nhưng ngày nay, để tiện cho sinh hoạt thì bếp lửa đã có một vị trí mới ở khu bếp riêng ngay cạnh chái nhà trong cùng. Trước kia ngôi nhà sàn của người Tày Đông hồ còn có sạp nước và sạp phơi bên cạnh chái nhà hoặc cạnh mặt sau nhà nhưng hiện nay đa phần nhà nào cũng có khu sinh hoạt và sân phơi riêng biệt, không gắn liền với nhà chính như kiểu kiến trúc trước đây.

Hiện nay cũng không còn nhiều nhà giữ được máng nước ngay đầu hồi cầu thang lên sàn… nhưng ngôi nhà sàn của người Tày Đông hồ vẫn luôn là tài sản vô giá - một nét đẹp độc đáo cần được gìn giữ và phát huy. Trong sự đổi thay của cuộc sống ngày càng hiện đại hơn, những mái nhà sàn thấp thoáng, những bản làng không bao giờ ngớt lời khắp, cọi da diết… sẽ là nơi để mọi người tìm về với những nét đẹp vốn có bao đời nay của cha ông.

Anh Thư 

Nét độc đáo của ngôi nhà sàn người Tày Bảo Yên (Thanh Thủy)

Đây cũng là sản phẩm kiến trúc độc đáo, thể hiện sự hòa hợp của con người, thiên nhiên và văn hóa dân tộc.

Nhà sàn người Tày Bảo Yên là sản phẩm kiến trúc độc đáo, thể hiện sự hòa hợp của con người, thiên nhiên và văn hóa dân tộc
Những nếp nhà sàn bằng gỗ, mái lợp cọ nằm dưới những chân đồi xanh ngút ngát là đặc trưng truyền thống, thấm sâu vào tâm hồn nhiều thế hệ đồng bào Tày, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai.

Thông thường ngôi nhà sàn của đồng bào Tày, huyện Bảo Yên là ba gian hai trái hoặc hai gian hai trái. Theo các cụ cao niên ở đây cho biết, ngày xưa khi rừng còn nhiều, bà con thường chọn những cây gỗ to nhất, tốt nhất về làm ngôi nhà 4 gian hai trái rất rộng rãi.

net doc dao cua ngoi nha san nguoi tay bao yen hinh 1
Mái nhà sàn của một gia đình người Tày ở Nghĩa Đô, Bảo Yên. Ảnh: Nguyễn Thế Lượng/Tuổi trẻ
Gia đình nào có nhiều nhân lực, tiền bạc có thể làm những ngôi nhà sàn to lớn, từ cột kèo cho đến gỗ bưng vách, làm sàn cầu thang. Nhà nào ít điều kiện hơn thì làm ngôi nhà nhỏ ba gian hai trái. Hiện những ngôi nhà sàn cũ còn sót lại ở Bảo Yên thường là kiểu nhà ba gian hai trái. Khâu chuẩn bị vật liệu làm nhà là quan trọng và tốn thời gian nhất, thường mất từ 2 đến 5 năm, có hộ đến 10 năm.

Theo truyền thống của người Tày, khi gia đình có từ 2 con trở lên, sau khi người con trai cả xây dựng gia đình sẽ được bố mẹ bố trí đất, chuẩn bị gỗ làm nhà ra ở riêng, còn ngôi nhà bố mẹ đang ở sẽ được truyền cho người con út. Chị Lương Thị Ban ở bản Dịa, xã Nghĩa Đô nói:

“Ngôi nhà to hay nhỏ cũng đều được truyền lại cho người con út. Đây cũng là điều mà ông bà, cha mẹ giáo dục cho con cháu như chúng tôi tiếp tục phát huy những gì gia đình đã có, cần cù, chịu khó làm ăn, anh em yêu thương nhau, trên nhường dưới, dưới kính trọng trên và biết ơn ông bà, cha mẹ”.

Ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày trước đây có bếp nấu đặt ở vị trí trung tâm, giúp giữ ấm cho cả nhà trong mùa đông lạnh giá. Vào mùa hè, sự cao ráo của sàn nhà giúp cho không khí được lưu thông thoáng mát, khi mưa không ẩm ướt và tránh được nhiều bệnh tật lây lan.

Tuy nhiên theo điều kiện hiện nay, người Tày không để bếp trong nhà nữa, thay vào đó họ dựng một ngôi nhà sàn nhỏ hơn nối vào nhà sàn chính để làm nhà bếp.

Theo quan niệm của người Tày, ngôi nhà sàn đẹp là lưng dựa vào núi, mặt hướng ra đồng ruộng, trước nhà có ao thả cá, tạo nên phong thủy hài hòa. Đó cũng là cách chọn lựa thế làm nhà truyền thống mà các cụ xưa đã đúc kết.

Ông Lương Văn Pong ở bản Dịa, xã Nghĩa Đô cho biết: “Ngôi nhà sàn ở Nghĩa Đô này rất hoàn chỉnh, hoàn chỉnh về mặt kết cấu, thứ hai là nét đẹp của ngôi nhà thì chỉ ở đây mới có và tôi đã đi nhiều nhưng không phải nơi nào cũng có”.

Với kỹ thuật của những người thợ tài hoa, ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày Bảo Yên ít dùng đến đinh sắt mà chỉ dùng mộc gỗ nối kèo cột tạo thành ngôi nhà. Nhà sàn vô cùng chắc chắn, đến lũ cũng khó cuốn trôi, gió cũng không quật đổ.

Điều đáng quý là việc dựng nhà không chỉ là việc riêng của một gia đình, mà ngôi nhà hoàn chỉnh có sự giúp đỡ của anh em, hàng xóm. Qua đó phát huy sự đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong đồng bào ở mỗi bản làng./.

Thanh Thủy
Đây cũng là sản phẩm kiến trúc độc đáo, thể hiện sự hòa hợp của con người, thiên nhiên và văn hóa dân tộc.

Nhà sàn người Tày Bảo Yên là sản phẩm kiến trúc độc đáo, thể hiện sự hòa hợp của con người, thiên nhiên và văn hóa dân tộc
Những nếp nhà sàn bằng gỗ, mái lợp cọ nằm dưới những chân đồi xanh ngút ngát là đặc trưng truyền thống, thấm sâu vào tâm hồn nhiều thế hệ đồng bào Tày, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai.

Thông thường ngôi nhà sàn của đồng bào Tày, huyện Bảo Yên là ba gian hai trái hoặc hai gian hai trái. Theo các cụ cao niên ở đây cho biết, ngày xưa khi rừng còn nhiều, bà con thường chọn những cây gỗ to nhất, tốt nhất về làm ngôi nhà 4 gian hai trái rất rộng rãi.

net doc dao cua ngoi nha san nguoi tay bao yen hinh 1
Mái nhà sàn của một gia đình người Tày ở Nghĩa Đô, Bảo Yên. Ảnh: Nguyễn Thế Lượng/Tuổi trẻ
Gia đình nào có nhiều nhân lực, tiền bạc có thể làm những ngôi nhà sàn to lớn, từ cột kèo cho đến gỗ bưng vách, làm sàn cầu thang. Nhà nào ít điều kiện hơn thì làm ngôi nhà nhỏ ba gian hai trái. Hiện những ngôi nhà sàn cũ còn sót lại ở Bảo Yên thường là kiểu nhà ba gian hai trái. Khâu chuẩn bị vật liệu làm nhà là quan trọng và tốn thời gian nhất, thường mất từ 2 đến 5 năm, có hộ đến 10 năm.

Theo truyền thống của người Tày, khi gia đình có từ 2 con trở lên, sau khi người con trai cả xây dựng gia đình sẽ được bố mẹ bố trí đất, chuẩn bị gỗ làm nhà ra ở riêng, còn ngôi nhà bố mẹ đang ở sẽ được truyền cho người con út. Chị Lương Thị Ban ở bản Dịa, xã Nghĩa Đô nói:

“Ngôi nhà to hay nhỏ cũng đều được truyền lại cho người con út. Đây cũng là điều mà ông bà, cha mẹ giáo dục cho con cháu như chúng tôi tiếp tục phát huy những gì gia đình đã có, cần cù, chịu khó làm ăn, anh em yêu thương nhau, trên nhường dưới, dưới kính trọng trên và biết ơn ông bà, cha mẹ”.

Ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày trước đây có bếp nấu đặt ở vị trí trung tâm, giúp giữ ấm cho cả nhà trong mùa đông lạnh giá. Vào mùa hè, sự cao ráo của sàn nhà giúp cho không khí được lưu thông thoáng mát, khi mưa không ẩm ướt và tránh được nhiều bệnh tật lây lan.

Tuy nhiên theo điều kiện hiện nay, người Tày không để bếp trong nhà nữa, thay vào đó họ dựng một ngôi nhà sàn nhỏ hơn nối vào nhà sàn chính để làm nhà bếp.

Theo quan niệm của người Tày, ngôi nhà sàn đẹp là lưng dựa vào núi, mặt hướng ra đồng ruộng, trước nhà có ao thả cá, tạo nên phong thủy hài hòa. Đó cũng là cách chọn lựa thế làm nhà truyền thống mà các cụ xưa đã đúc kết.

Ông Lương Văn Pong ở bản Dịa, xã Nghĩa Đô cho biết: “Ngôi nhà sàn ở Nghĩa Đô này rất hoàn chỉnh, hoàn chỉnh về mặt kết cấu, thứ hai là nét đẹp của ngôi nhà thì chỉ ở đây mới có và tôi đã đi nhiều nhưng không phải nơi nào cũng có”.

Với kỹ thuật của những người thợ tài hoa, ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày Bảo Yên ít dùng đến đinh sắt mà chỉ dùng mộc gỗ nối kèo cột tạo thành ngôi nhà. Nhà sàn vô cùng chắc chắn, đến lũ cũng khó cuốn trôi, gió cũng không quật đổ.

Điều đáng quý là việc dựng nhà không chỉ là việc riêng của một gia đình, mà ngôi nhà hoàn chỉnh có sự giúp đỡ của anh em, hàng xóm. Qua đó phát huy sự đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong đồng bào ở mỗi bản làng./.

Thanh Thủy

Nhà sàn của người Tày ở Hà Giang (Lan Anh)

Nhà sàn của người Tày (Ảnh: baotintuc.vn)

Không như ngôi nhà của người Thái hay người Mường có hai cầu thang lên xuống, nhà của người Tày chỉ có một cửa ra vào ở đầu cầu thang lên xuống.
Làng du lịch văn hóa cộng đồng Hạ Thành, xã Phượng Độ, cách thành phố Hà Giang 6km. Đây là ngôi làng của dân tộc Tày, còn lưu giữ được những bản sắc và kiến trúc nhà truyền thống. Nhà sàn của người tày có một vị trí quan trọng, không chỉ lưu giữ những giá trị văn hóa, tinh thần mà còn được xem là biểu tượng của mỗi người dân ở Hạ Thành.

Ấn tượng đầu tiên đối với một người phương xa khi đến thôn Hạ Thành là hình ảnh những ngôi nhà sàn của người Tày. Nằm dưới triền núi trùng điệp, những ngôi nhà sàn xinh xắn quây quần, dựa lưng vào sườn núi. Hơn 100 nếp nhà sàn ở thôn Hạ Thành đều chứa đựng những giá trị văn hóa riêng, là bảo tàng của từng gia đình, dòng họ. Gia đình bà Nguyễn Thị Điến hiện đang sống trong căn nhà do bố mẹ dựng cho. Bà Điến cho biết sống trong căn nhà này quen rồi nên không muốn chuyển sang chỗ khác mặc dù là nhà có điều kiện. "Bây giờ hai vợ chồng tôi cũng đã sửa sang ngôi nhà đó. Khi sửa thì vào rừng lấy cây.  Đi chặt cây thì cả trong bản hộ nhau hết. Mai sau thu hoạch thóc về có chỗ phơi ở sàn thì thuận tiện hơn" - bà chia sẻ.

Việc dựng ngôi nhà sàn cần rất nhiều công phu. Để chuần bị đủ nguyên liệu như Cột, ván, sàn, lá cọ... người dân phải vào rừng sâu, lên núi cao để kiếm tìm loại gỗ tốt lâu năm. Bà Nguyễn Thị Hòe, thôn Hạ Thành cho biết: "Nhà có 30 cột. Mỗi năm kiếm một đến 2 cái nên cũng phải mất 10 năm mới kiếm được 30 cột. Nhà to ở đây có 48 cột".

Đặc trưng của ngôi nhà sàn ở đây là đều được lợp lá cọ. Mái lá cọ khiến cho căn nhà thêm phần duyên dáng, mềm mại. Mỗi căn nhà sàn cần đến trên 1000 lá cọ để lợp nhà. Bà Nguyễn Thị Dụng cho biết: "Riêng chặt lá cọ phải mất 3 ngày.. Cứ báo cáo ông trưởng bản. Ông ấy viết lên bảng tin thông báo thì cả làng đến giúp chứ không phải nhờ ai một câu nào. Còn gia đình thì làm cơm thiết đãi mọi người. Luật lệ làng là như vậy từ xưa đến nay vẫn không thay đổi. Mình phải lợp mái lá dày.  Lợp hết mái cũng mất 1100 lá. Lợp lá cỏ thì mát, thoáng. Lợp lá cọ không sợ mưa đá, độ bền được hơn 30 năm".

Nhà sàn có diện tích sử dụng rất lớn, chia thành các gian và mỗi gian đều có chức năng riêng. Gian giữa dùng làm bàn thờ, để cầu nguyện ông bà tổ tiên phù hộ cho gia đình an lành, ấm no và hạnh phúc. Còn các gian phụ được dùng để sinh hoạt, để đồ đạc…Tuy là phân chia thành từng khu vực nhưng không hệ có một bức tường nào che chắn. Bà Hòe cho biết ngôi nhà của người Tày là không gian mở, kể cả phòng ngủ. "Phong tục của người tày không làm buồng ngủ. Thời này thì có màn gió. Ngày trước dùng màn củ nâu. Ở ngoài nhìn vào không thấy còn ở trong thì nhìn ra ngoài rõ nét. Như nhà tôi có 7 người ở".

Cầu thang lên nhà sàn làm bằng gỗ và thường có 9 bậc, mỗi bậc tượng trưng cho một vía của người phụ nữ Tày. Người Tày còn quan niệm 9 bậc cầu thang tượng trưng cho 9 bậc tình yêu. 9 bậc đi trên cầu thang, bước thứ 10 bước vào đến nhà thì con cái trong gia đình đó mới lấy được chồng, được vợ. Còn khi nhà có khách quý, chủ nhà phải xuống tận chân cầu thang chào mời khách lên nhà, khi khách lên cầu thang chủ nhà cũng phải đi sau để bảo vệ và hướng dẫn cho khách. Không như ngôi nhà của người Thái hay người Mường có hai cầu thang lên xuống, nhà của người Tày chỉ có một cửa ra vào ở đầu cầu thang lên xuống. Đi hết cầu thang bước vào cửa nhà, đi sâu vào trong nhà để ở, đun nấu, sinh hoạt. Từ đó tất cả vật liệu để làm nhà bằng tre, nứa, gỗ, đều lấy đầu ngọn quay về cửa ra vào, Đặc điểm này cũng làm nên nét đặc trưng rất riêng biệt trong văn hóa dựng nhà của người Tày./.

Lan Anh
Nhà sàn của người Tày (Ảnh: baotintuc.vn)

Không như ngôi nhà của người Thái hay người Mường có hai cầu thang lên xuống, nhà của người Tày chỉ có một cửa ra vào ở đầu cầu thang lên xuống.
Làng du lịch văn hóa cộng đồng Hạ Thành, xã Phượng Độ, cách thành phố Hà Giang 6km. Đây là ngôi làng của dân tộc Tày, còn lưu giữ được những bản sắc và kiến trúc nhà truyền thống. Nhà sàn của người tày có một vị trí quan trọng, không chỉ lưu giữ những giá trị văn hóa, tinh thần mà còn được xem là biểu tượng của mỗi người dân ở Hạ Thành.

Ấn tượng đầu tiên đối với một người phương xa khi đến thôn Hạ Thành là hình ảnh những ngôi nhà sàn của người Tày. Nằm dưới triền núi trùng điệp, những ngôi nhà sàn xinh xắn quây quần, dựa lưng vào sườn núi. Hơn 100 nếp nhà sàn ở thôn Hạ Thành đều chứa đựng những giá trị văn hóa riêng, là bảo tàng của từng gia đình, dòng họ. Gia đình bà Nguyễn Thị Điến hiện đang sống trong căn nhà do bố mẹ dựng cho. Bà Điến cho biết sống trong căn nhà này quen rồi nên không muốn chuyển sang chỗ khác mặc dù là nhà có điều kiện. "Bây giờ hai vợ chồng tôi cũng đã sửa sang ngôi nhà đó. Khi sửa thì vào rừng lấy cây.  Đi chặt cây thì cả trong bản hộ nhau hết. Mai sau thu hoạch thóc về có chỗ phơi ở sàn thì thuận tiện hơn" - bà chia sẻ.

Việc dựng ngôi nhà sàn cần rất nhiều công phu. Để chuần bị đủ nguyên liệu như Cột, ván, sàn, lá cọ... người dân phải vào rừng sâu, lên núi cao để kiếm tìm loại gỗ tốt lâu năm. Bà Nguyễn Thị Hòe, thôn Hạ Thành cho biết: "Nhà có 30 cột. Mỗi năm kiếm một đến 2 cái nên cũng phải mất 10 năm mới kiếm được 30 cột. Nhà to ở đây có 48 cột".

Đặc trưng của ngôi nhà sàn ở đây là đều được lợp lá cọ. Mái lá cọ khiến cho căn nhà thêm phần duyên dáng, mềm mại. Mỗi căn nhà sàn cần đến trên 1000 lá cọ để lợp nhà. Bà Nguyễn Thị Dụng cho biết: "Riêng chặt lá cọ phải mất 3 ngày.. Cứ báo cáo ông trưởng bản. Ông ấy viết lên bảng tin thông báo thì cả làng đến giúp chứ không phải nhờ ai một câu nào. Còn gia đình thì làm cơm thiết đãi mọi người. Luật lệ làng là như vậy từ xưa đến nay vẫn không thay đổi. Mình phải lợp mái lá dày.  Lợp hết mái cũng mất 1100 lá. Lợp lá cỏ thì mát, thoáng. Lợp lá cọ không sợ mưa đá, độ bền được hơn 30 năm".

Nhà sàn có diện tích sử dụng rất lớn, chia thành các gian và mỗi gian đều có chức năng riêng. Gian giữa dùng làm bàn thờ, để cầu nguyện ông bà tổ tiên phù hộ cho gia đình an lành, ấm no và hạnh phúc. Còn các gian phụ được dùng để sinh hoạt, để đồ đạc…Tuy là phân chia thành từng khu vực nhưng không hệ có một bức tường nào che chắn. Bà Hòe cho biết ngôi nhà của người Tày là không gian mở, kể cả phòng ngủ. "Phong tục của người tày không làm buồng ngủ. Thời này thì có màn gió. Ngày trước dùng màn củ nâu. Ở ngoài nhìn vào không thấy còn ở trong thì nhìn ra ngoài rõ nét. Như nhà tôi có 7 người ở".

Cầu thang lên nhà sàn làm bằng gỗ và thường có 9 bậc, mỗi bậc tượng trưng cho một vía của người phụ nữ Tày. Người Tày còn quan niệm 9 bậc cầu thang tượng trưng cho 9 bậc tình yêu. 9 bậc đi trên cầu thang, bước thứ 10 bước vào đến nhà thì con cái trong gia đình đó mới lấy được chồng, được vợ. Còn khi nhà có khách quý, chủ nhà phải xuống tận chân cầu thang chào mời khách lên nhà, khi khách lên cầu thang chủ nhà cũng phải đi sau để bảo vệ và hướng dẫn cho khách. Không như ngôi nhà của người Thái hay người Mường có hai cầu thang lên xuống, nhà của người Tày chỉ có một cửa ra vào ở đầu cầu thang lên xuống. Đi hết cầu thang bước vào cửa nhà, đi sâu vào trong nhà để ở, đun nấu, sinh hoạt. Từ đó tất cả vật liệu để làm nhà bằng tre, nứa, gỗ, đều lấy đầu ngọn quay về cửa ra vào, Đặc điểm này cũng làm nên nét đặc trưng rất riêng biệt trong văn hóa dựng nhà của người Tày./.

Lan Anh