This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Đặc trưng văn hóa người Dao ( Minh Trang)

Tục cưới hỏi.
Trước đây, tục tảo hon khá phổ biến ở người Dao, tuổi kết hôn thường dưới tuổi 18. Tục lệ cưới xin bo gồm nhiều nghi lễ phức tạp, mỗi nhóm lại có nghi lễ riêng.
Hôn lễ thường phải trải qua 4 bước:

–         Bước thứ nhất, nhà trai đến nhà gái xin so đôi tuổi. Bước này gọi là nại nham hay nịnh nại
–         Bước thứ hai gọi là ghịa tịnh hay quẹng piêu, bên trai báo cho bên gái biết kết quả của việc so đôi tuổi nếu hợp tuổi và nhà gái ưng thuận thì xin thách cưới và viết hôn thư.
–         Bước thứ 3, định ngày cưới. Nhà trai dẫn cho nhà gái một nửa số tiền mặt và các đồ sính lễ khác. Bước này gọi là thúng thẩu.
–         Bướ thứ 4 gọi là chíp nham hay quái trá. Đây là bước quan trọng nhất- tổ chức lễ cưới.
Dưới đây là nội dung lễ cưới của một vài nhóm Dao:
Dao đỏ: lễ cưới của người Dao đỏ ít phức tạp. Sau bước thứ 3 thì đến lễ cưới, thời gian chờ đợi này khoảng 1 năm. Trong khi chờ đợi làm lễ cưới, cô dâu không phải tham gia lao động cùng với gia đình, được ở nhà để chuẩn bị của hồi môn (dệt vải, nhuộm chàm, thêu thùa, may vá….)
Đến đúng ngày hẹn trong hôn thư, nhà trai mổ lợn đón anh em bà con tới dự rồi cử một đoàn đi đón dâu. Đoàn này thường là 7 hoặc 9 người. Đồng bào cho rằng, số người đi đón dâu phải là lẻ khi cô dâu về sẽ là chẵn. Dù gần hay xa, đoàn đón dâu cũng phải tới nhà gái vào lúc hoàng hôn. Đoàn ngủ tại nhà gái một đêm, hôm sau mới đưa cô dâu về. Trên đường về nhà chồng, cô dâu ăn vận quần áo mới và đội một cái mũ đặc biệt mà ngày thường không được đội. Khi cô dâu đến nhà trai thì kèn trống nổi lên để chào mừng, rồi đôi trai gái vào làm lễ hợp cẩn. Làm lễ hợp cẩn xong, lễ cưới được coi như đã kết thúc. Từ đây, cô dâu phải ở hẳn bên nhà chồng, ít khi được về nhà mẹ đẻ. Nếu không may chồng chết, người vợ góa cũng không được trở về nhà mình mà phải ở lại nhà chồng, đến khi tái giá thì về nhà chồng mới.
Dao tiền: trước khi làm lễ cưới, người con trai phải qua bước làm công(đây là tục lệ chỉ có ở người Dao Tiền). Khi người con trai đến tuổi lấy vợ, cha mẹ anh ta tìm nơi nào có con gái vừa ý thì tìm người đánh tiếng và xin so đôi tuổi. Nếu nhà gái đồng ý và so đôi tuổi không gặp trở ngại gì, nhà trai đến xin làm công. Lần đầu tiên người con trai đến nhà gái làm công thường đi cùng một người bà con nữa. Người này chỉ ở lại nhà gái một đêm, sáng hôm sau sẽ trở về để người con trai ở lại đó. Làm việc ở nhà gái khoảng 3- 4 ngày, người con trai sẽ trở về nhà mình. Khoảng 1- 2 tháng sau, anh ta lại đến lao động cho nhà gái. Lần này, chàng rể tương lai đã có thể trò chuyện và chung chăn gối với người con gái đó rồi. Nếu gia đình đông con gái mà có 2 người cùng đến làm công thì bố mẹ cô gái sẽ dành riêng cho mỗi cặp một giường. Sau vài ngày làm việc, người con trai phải trở về nhà. Sau lần này, anh ta đã được phép làm lễ cưới hay vẫn phải tiếp tục làm công còn tùy ý nhà gái. Có những chàng trai đi làm công nhiều lần mà vẫn không lấy được vợ.
Đến ngày cưới, cả nhà trai và nhà gái đều mổ lợn mời bà con họ hàng đến dự. Gia đình nào chưa đử tiền cưới thì có thể xin cưới tạm. Làm dám cưới tạm ít nhất vẫn phải mổ một con lợn và còn ăn thêm thịt ướp chua.
Lễ vật của lễ cưới chính thức thường có: ba lợn (khoảng 200 kg), 15 kg muối, 20 lít rượu, 1 nén bạc trắng, 40 vuông vải, 12 con chỉ đỏ.
Nếu đôi vợ chồng nào chưa tổ chức được lễ cưới chính thức mà có con gái đi lấy chồng thì phải giết lợn cúng tổ tiên và mời bà con bên phía mẹ tới dự để xin giá (mình thố trà) tức là hỏi ông bà ngoại trước đây đã thách cưới cho mẹ người con gái những gì thì nay người con gái cũng thách những thứ đó và số của này phải trao lại cho ông bà ngoại.
Dao quần trắng: Cũng như Dao đỏ, tới ngày cưới, nhà trai tổ chức ăn uống và cử đoàn người đi đón dâu. Đoàn này gồm 11 người: chánh và phó quan lang, một thanh phù rể, hai nam đóng giả nữ (để dắt tay dâu và rể) và sáu người khác. Đoàn đón dâu cũng phải đến nhà gái vào lúc hoàng hôn, nếu đến sớm phải đợi ở bên nhà nào đó cạnh nhà gái.
Đến cổng nhà gái, hai nam đóng giả nữ lấy một áo dài màu đỏ chùm kín đầu chàng rể rồi cầm tay dắt đến chờ dưới chân cầu thang (Dao quần trắng ở nhà sàn). Trên nhà, bên gái bắt đầu hát, nội dung của các câu hát thường là câu đố. Bên trai, quan lang phải lên tiếng đáp lại. một số thanh niên lấy dây lưng chăng ngang cầu thang và đóng cửa lại không cho rể lên nhà. Một số cô gái khác lấy chỉ đỏ buộc vào cần câu, đầu lợn treo miếng thịt lợn sống dử vào miệng quan lang và nói những câu rất tục, vừa bằng tiếng Dao vừa bằng tiếng Việt, nhằm làm cho quan lang tức giận nói lại bằng tiếng Việt để phạt vạ.
Đến khuya người ta mới mở cửa, nhưng trước cửa vẫn còn chiếc dây lưng chắn ngang. Hai bạn dâu lại cất lên tiếng hát:
Hôm nay rồng bạch xuống lấy nước
Các anh nâng được em sẽ cho vào
Chánh quan đưa ra hai hào bạc trắng rồi hát đap:
Ta tuy bé nhỏ nhưng tài
Cưỡi rồng dạo khắp trong ngoài Qúy Châu
Hai thiếu nữ thu dây lưng, lên thang, chú rể theo hai nam đóng giả nữ vào thẳng buồng cô dâu. Họ hàng nhà gái bắt đầu vào tiệc. lúc này, cô dâu ở nhà láng giềng mới về (trước khi rể tới nhà, cô dâu phải tạm lánh ở một nhà nào đó, nhà này phải vợ chồng song toàn và đông con cháu) để xem mặt rể. Cô dâu vào buồng, chú rể bỏ áo ra cho xem mặt. Tiếp theo, người ta bưng vào buồng một mâm cỗ có đủ các thứ thịt củ một con lợn. Hai người ăn qua loa một vài miếng để làm phép rồi chú rể ra khỏi buồng lạy cha mẹ vợ, họ nhà vợ mỗi người 4 lạy và mừng mẹ vợ một chiếc vòng bạc. Mọi người ăn uống xong, trai gái hát đối đáp cho tới sáng.
Trước khi lên đường về nhà chồng, cô dâu phải mặc quần áo trắng, áo mới bên trong, áo cũ bên ngoài, ngoài cùng là áo dài màu đỏ. Đầu đội một cái mũ giống như cái bồ đài, xung quanh mũ đính nhiều ngôi sao bạc.
Trên đường về nhà chồng, đến một ngã ba đầu tiên, cô dâu cởi áo cũ trả lại cha mẹ. Gần đến nhà trai, cô dâu dùng vạt áo đỏ che kín mặt. Cả đêm hôm đó, cô dâu không được bỏ áo dài à mũ. Đến hôm sau, sau khi làm lễ nhị hỷ, cô dâu mới trả lại áo mũ cho cha mẹ. Ngày thứ 3 người chồng lại đưa vợ về nhà mình. Khoảng 10 hôm sau, đôi tân hôn lại trở về nhà mẹ vợ và phải ở đó cho tới khi có con mới được ra ở riêng hoặc trở lại nhà bố mẹ chồng.
Lễ cưới của người Dao thanh y và một số nhóm Dao khác cũng phức tạp không kém gì Dao quần trắng.
Tục sinh nở.
Trước đây, vì đời sống kin tế còn thiếu thốn, trong việc sinh đẻ, sự chăm sóc sản phụ, trẻ sơ sinh còn thiếu khoa học, mê tín dị đoan nặng nề nên nạn có đẻ không có nuôi rất phổ biến ở người Dao. Có nhóm Dao, dân số không những không tăng mà ngày càng giảm sút. Mong ước có trẻ nhỏ và nhiều trẻ nhỏ không chỉ của từng cặp vợ chồng riêng lẻ mà còn là của cả một tộc người. Mặc dù mọi người đều có mong muốn như vậy nhưng người Dao vẫn coi người phụ nữ có thai là không tin khiết và hình như họ còn có thể đem đến những rủi ro. Điều đó được thể hiện ở một số kiêng kị của sản phụ. Người mang thai không được đến nơi đặt bàn thờ (nhất là bàn thờ tổ tiên), không được tiếp xúc với thầy cúng, thày tào, không vào những nơi để hạt giống, để rượu. Ngoài ra, người có thai còn phải kiêng không được trèo cây, hái quả, không được bước qua thừng trâu, chạc ngựa. Không những thế, tháng nào cũng có những kiêng kị riêng, ví dụ như: tháng giêng, tháng bảy là tháng hồn ở cửa chính, kiêng không được đào đất, không được sửa chữa động đến cửa chính. Tháng hai, tháng tám là tháng hồn thai ở giữa sân, không được đào đất, đốt lửa hoặc đặt các vật nặng vào sân… Phụ nữ có thai thường hay e thẹn, nhất là Dao thanh y không muốn ai hỏi tới chuyện có thai. Những người có thai con so, đi đâu cũng phải lấy quạt che bụng hoặc cố để làm thế nào mọi người không biết mình đang có thai.
Người Dao đẻ ngồi. Sản phụ ngồi trên một cái ghế thấp chân tay bám vào một sợi dây thừng buộc  vào đòn tay nhà. Chồng hoặc mẹ chồng đỡ hộ, đôi khi sản phụ phải tự đỡ lấy, ít khi nhờ người ngoài. Đứa trẻ lọt lòng mẹ, người ta chờ khi nào nó khóc mới bế lên và tắm rửa bằng nước nóng. Chờ lâu mà đứa bé không khóc, người ta sẽ lấy sách cúng quạt cho nó, tin rằng làm như vậy đứa bé sẽ khóc và  thường sau này đứa bé được đặt tên là Slâu có nghia là sách. Rốn được cắt bằng dao nứa, nhau được cho vào sọt gác lên cây hoặc cho vào ống nứa đem lên rừng chôn ở chôn ở một nơi nào khô ráo, còn cuống rốn được sấy khô để làm thuốc chữa bệnh. Đẻ xong, sản phụ được uống nước gừng và các thức ăn nấu với gừng. Sản phụ không phải ăn khem quá kham khổ mà thường được ăn cơm nếp với thịt gà hoặc chân giò lợn nấu lẫn với các vị thuốc bổ. Nhà có người đẻ, cửa trước treo cành lá xanh hay cài hoa chuối rừng để làm dấu cấm cữ.
Khi đẻ sinh đôi, nếu là h1 trai 1 gái thì phải làm lễ hợp cần cho chúng, người ta cho rằng có làm như vậy thì mới nuôi được cả đôi. Trước đây còn có lệ tục là khi đứa bé mới lọt lòng mẹ mà không quay mặt về phía người mẹ thì bị cho là điềm xấu, phải cúng bái rất tốn kém mới dám nuôi, hoặc bỏ không nuôi. Sau khi sinh được 3-4 ngày, người ta phải làm lễ cúng tổ tiên và sau một tháng thì cúng mụ và đặt tên cho đứa bé. Lần thư nhất đặt tên cho đứa bé thường không chú ý đến chữ lót, thường đặt theo tên một vị thần hộ mệnh nào đó.
Từ sau cách mạng đến nay, trong việc sinh đẻ của người Dao đã có nhiều thay đổi: các tệ tục giảm dần, nạn không đẻ hoặc chết yểu đã được hạn chế đến mức tối đa, dân số Dao đã tăng lên rõ rệt. Có nhiều nhóm Dao, tỉ lệ sinh đẻ đã lên tới trên 4% dân số.

Đồng bào Dao cũng có quan niệm người chết là lìa khỏi cõi trần nhưng lại có một đời sống khác ở một thế giới khác, cuộc sống đó không khác gì cõi trần.
Quan niệm ấy được thể hiện rất rõ trong việc tang ma cho người chết. Gia đình nào có người chết, mọi ngươi trong nhà không được khóc ngay. Tang chủ phải đeo dao và buộc dây ngang thắt lưng đem hai gói muối, một chai rượu và vàng hương tới đặt trước cửa nhà thày tào lạy 3 lạy. Thày tào nhận lễ, đem cúng trước bàn thờ Tam thanh, sau đó tang chủ mới được vào nhà báo tang và mời tào đến “cầm đầu ma”. Tang chủ còn phải đến trước cửa từng nhà trong xóm để báo tang và xin hộ tang. Sau khi được báo, thày tào đến ngay nhà có người chết để làm lễ mai táng. Người chết mà đã được cấp sắc, khi tắt thở người ta bắn ba phát súng chỉ thiên để báo cho ngọc hoàng biết. Nếu là người đứng đầu làng, người ta còn phải chọc thủng nóc nhà và giương ô đặt ngay tại lỗ thủng ấy rồi mới bắn súng. Đồng bào rất e ngại giờ khâm liệm người chết trùng với giờ sinh của những người trong gia đình, vì tin rằng làm như vậy hồn người chết sẽ bắt người sống cùng đi. Nếu không nhớ giờ sinh của những người trong gia đình, khi làm lễ khâm liệm, mọi người phải lánh mặt. Người chết được nhập quan ngay tại nhà hay tại huyệt còn tùy thuộc vào tục lệ của từng nhóm Dao. Trước đây, có lẽ tất cả các nhóm Dao đều có tục hỏa táng, nay tục này chỉ còn thấy ở Dao áo dài hoặc chỉ còn tàn dư ở người Dao quần trắng. người chết được đặt nằm ở gian cạnh bếp, đầu quay về phía trước nhà. Người chết được nhập quan rồi mới đem thiêu. Thày tào tìm địa điểm hỏa táng rồi cho chất củi ở đó. Củi được xếp theo kiểu cũi lợn gồm có chín lớp. Áo quan đặt lên đống củi rồi thày tào báo cho mọi người ra về mới châm lửa thiêu. Sáng hôm sau, cả gia đình có người chết ra bới đóng tro tàn ấy nhặt lấy một ít xương vụn cho vào lọ đem đặt ở một địa điểm khác, nơi đặt lọ xương thường có mái che. Còn bao nhiêu xương và tro được chôn tại chỗ. Tuy nhiên, người ta cũng chỉ hỏa táng những người chết từ 12 tuổi trở lên.
Ngoài tục địa táng, hỏa táng, người Dao tiền còn có tục táng lộ thiên- táng trên sàn cao. Người chết vào giờ xấu không được chôn ngay mà cho vào một cỗ áo quan đặc biệt ghép bằng trúc hay nứa nguyên cây theo kiểu xếp cũi lợn, đặt trên sàn cao khoảng 2m. 4 cột sàn được làm thật nhẵn để thú rừng không leo lên được. Sau 1 năm, thịt rữa hết, xương được cho vào lọ đem chôn
Trong các đám tang của người Dao đều có lễ cúng đưa hồn người chết về quê hương cũ là đất Châu Dương.
Người Dao cũng có quần áo tang, nhưng nay nhiều nhóm chỉ có khăn tang. Sau khi mãn tang, người ta mời thày tào về làm lễ đoạn tang và lập bát hương thờ vong người chết. bát hương này hỉ thờ 3 năm thì hủy.
Mộ của người Dao thường ở phí đầu có một hòn đá, phía chân ba hòn đá xếp thành cái cổng nhỏ. Dao thanh y hoặc Dao quần trắng còn có nhà mồ. Những nơi để mồ mả nhất thiết không ai được làm nhà ở đó.
Những tục lệ vừa lạc hậu, vừa phiền hà lại tốn kém đang được bỏ dần. Về cưới hỏi, lệ thách cưới bằng bạc trắng hãy còn nhưng đã có thể thay bằng tiền giấy, tịt, rượu, gạo đã giảm đáng kể. Nhiều nơi đã tổ chức lễ cưới theo nếp sống mới. Về sinh đẻ, không còn nạn có đẻ mà không có nuôi mà tỉ lệ sinh đẻ đã tăng rất nhanh. Về ma chay, hầu như đã không còn lệ quản người chết ở lâu trong nhà, cúng bái ít đi, ăn uống cũng giảm, song chưa phải là bỏ hẳn.
Minh Trang
Tục cưới hỏi.
Trước đây, tục tảo hon khá phổ biến ở người Dao, tuổi kết hôn thường dưới tuổi 18. Tục lệ cưới xin bo gồm nhiều nghi lễ phức tạp, mỗi nhóm lại có nghi lễ riêng.
Hôn lễ thường phải trải qua 4 bước:

–         Bước thứ nhất, nhà trai đến nhà gái xin so đôi tuổi. Bước này gọi là nại nham hay nịnh nại
–         Bước thứ hai gọi là ghịa tịnh hay quẹng piêu, bên trai báo cho bên gái biết kết quả của việc so đôi tuổi nếu hợp tuổi và nhà gái ưng thuận thì xin thách cưới và viết hôn thư.
–         Bước thứ 3, định ngày cưới. Nhà trai dẫn cho nhà gái một nửa số tiền mặt và các đồ sính lễ khác. Bước này gọi là thúng thẩu.
–         Bướ thứ 4 gọi là chíp nham hay quái trá. Đây là bước quan trọng nhất- tổ chức lễ cưới.
Dưới đây là nội dung lễ cưới của một vài nhóm Dao:
Dao đỏ: lễ cưới của người Dao đỏ ít phức tạp. Sau bước thứ 3 thì đến lễ cưới, thời gian chờ đợi này khoảng 1 năm. Trong khi chờ đợi làm lễ cưới, cô dâu không phải tham gia lao động cùng với gia đình, được ở nhà để chuẩn bị của hồi môn (dệt vải, nhuộm chàm, thêu thùa, may vá….)
Đến đúng ngày hẹn trong hôn thư, nhà trai mổ lợn đón anh em bà con tới dự rồi cử một đoàn đi đón dâu. Đoàn này thường là 7 hoặc 9 người. Đồng bào cho rằng, số người đi đón dâu phải là lẻ khi cô dâu về sẽ là chẵn. Dù gần hay xa, đoàn đón dâu cũng phải tới nhà gái vào lúc hoàng hôn. Đoàn ngủ tại nhà gái một đêm, hôm sau mới đưa cô dâu về. Trên đường về nhà chồng, cô dâu ăn vận quần áo mới và đội một cái mũ đặc biệt mà ngày thường không được đội. Khi cô dâu đến nhà trai thì kèn trống nổi lên để chào mừng, rồi đôi trai gái vào làm lễ hợp cẩn. Làm lễ hợp cẩn xong, lễ cưới được coi như đã kết thúc. Từ đây, cô dâu phải ở hẳn bên nhà chồng, ít khi được về nhà mẹ đẻ. Nếu không may chồng chết, người vợ góa cũng không được trở về nhà mình mà phải ở lại nhà chồng, đến khi tái giá thì về nhà chồng mới.
Dao tiền: trước khi làm lễ cưới, người con trai phải qua bước làm công(đây là tục lệ chỉ có ở người Dao Tiền). Khi người con trai đến tuổi lấy vợ, cha mẹ anh ta tìm nơi nào có con gái vừa ý thì tìm người đánh tiếng và xin so đôi tuổi. Nếu nhà gái đồng ý và so đôi tuổi không gặp trở ngại gì, nhà trai đến xin làm công. Lần đầu tiên người con trai đến nhà gái làm công thường đi cùng một người bà con nữa. Người này chỉ ở lại nhà gái một đêm, sáng hôm sau sẽ trở về để người con trai ở lại đó. Làm việc ở nhà gái khoảng 3- 4 ngày, người con trai sẽ trở về nhà mình. Khoảng 1- 2 tháng sau, anh ta lại đến lao động cho nhà gái. Lần này, chàng rể tương lai đã có thể trò chuyện và chung chăn gối với người con gái đó rồi. Nếu gia đình đông con gái mà có 2 người cùng đến làm công thì bố mẹ cô gái sẽ dành riêng cho mỗi cặp một giường. Sau vài ngày làm việc, người con trai phải trở về nhà. Sau lần này, anh ta đã được phép làm lễ cưới hay vẫn phải tiếp tục làm công còn tùy ý nhà gái. Có những chàng trai đi làm công nhiều lần mà vẫn không lấy được vợ.
Đến ngày cưới, cả nhà trai và nhà gái đều mổ lợn mời bà con họ hàng đến dự. Gia đình nào chưa đử tiền cưới thì có thể xin cưới tạm. Làm dám cưới tạm ít nhất vẫn phải mổ một con lợn và còn ăn thêm thịt ướp chua.
Lễ vật của lễ cưới chính thức thường có: ba lợn (khoảng 200 kg), 15 kg muối, 20 lít rượu, 1 nén bạc trắng, 40 vuông vải, 12 con chỉ đỏ.
Nếu đôi vợ chồng nào chưa tổ chức được lễ cưới chính thức mà có con gái đi lấy chồng thì phải giết lợn cúng tổ tiên và mời bà con bên phía mẹ tới dự để xin giá (mình thố trà) tức là hỏi ông bà ngoại trước đây đã thách cưới cho mẹ người con gái những gì thì nay người con gái cũng thách những thứ đó và số của này phải trao lại cho ông bà ngoại.
Dao quần trắng: Cũng như Dao đỏ, tới ngày cưới, nhà trai tổ chức ăn uống và cử đoàn người đi đón dâu. Đoàn này gồm 11 người: chánh và phó quan lang, một thanh phù rể, hai nam đóng giả nữ (để dắt tay dâu và rể) và sáu người khác. Đoàn đón dâu cũng phải đến nhà gái vào lúc hoàng hôn, nếu đến sớm phải đợi ở bên nhà nào đó cạnh nhà gái.
Đến cổng nhà gái, hai nam đóng giả nữ lấy một áo dài màu đỏ chùm kín đầu chàng rể rồi cầm tay dắt đến chờ dưới chân cầu thang (Dao quần trắng ở nhà sàn). Trên nhà, bên gái bắt đầu hát, nội dung của các câu hát thường là câu đố. Bên trai, quan lang phải lên tiếng đáp lại. một số thanh niên lấy dây lưng chăng ngang cầu thang và đóng cửa lại không cho rể lên nhà. Một số cô gái khác lấy chỉ đỏ buộc vào cần câu, đầu lợn treo miếng thịt lợn sống dử vào miệng quan lang và nói những câu rất tục, vừa bằng tiếng Dao vừa bằng tiếng Việt, nhằm làm cho quan lang tức giận nói lại bằng tiếng Việt để phạt vạ.
Đến khuya người ta mới mở cửa, nhưng trước cửa vẫn còn chiếc dây lưng chắn ngang. Hai bạn dâu lại cất lên tiếng hát:
Hôm nay rồng bạch xuống lấy nước
Các anh nâng được em sẽ cho vào
Chánh quan đưa ra hai hào bạc trắng rồi hát đap:
Ta tuy bé nhỏ nhưng tài
Cưỡi rồng dạo khắp trong ngoài Qúy Châu
Hai thiếu nữ thu dây lưng, lên thang, chú rể theo hai nam đóng giả nữ vào thẳng buồng cô dâu. Họ hàng nhà gái bắt đầu vào tiệc. lúc này, cô dâu ở nhà láng giềng mới về (trước khi rể tới nhà, cô dâu phải tạm lánh ở một nhà nào đó, nhà này phải vợ chồng song toàn và đông con cháu) để xem mặt rể. Cô dâu vào buồng, chú rể bỏ áo ra cho xem mặt. Tiếp theo, người ta bưng vào buồng một mâm cỗ có đủ các thứ thịt củ một con lợn. Hai người ăn qua loa một vài miếng để làm phép rồi chú rể ra khỏi buồng lạy cha mẹ vợ, họ nhà vợ mỗi người 4 lạy và mừng mẹ vợ một chiếc vòng bạc. Mọi người ăn uống xong, trai gái hát đối đáp cho tới sáng.
Trước khi lên đường về nhà chồng, cô dâu phải mặc quần áo trắng, áo mới bên trong, áo cũ bên ngoài, ngoài cùng là áo dài màu đỏ. Đầu đội một cái mũ giống như cái bồ đài, xung quanh mũ đính nhiều ngôi sao bạc.
Trên đường về nhà chồng, đến một ngã ba đầu tiên, cô dâu cởi áo cũ trả lại cha mẹ. Gần đến nhà trai, cô dâu dùng vạt áo đỏ che kín mặt. Cả đêm hôm đó, cô dâu không được bỏ áo dài à mũ. Đến hôm sau, sau khi làm lễ nhị hỷ, cô dâu mới trả lại áo mũ cho cha mẹ. Ngày thứ 3 người chồng lại đưa vợ về nhà mình. Khoảng 10 hôm sau, đôi tân hôn lại trở về nhà mẹ vợ và phải ở đó cho tới khi có con mới được ra ở riêng hoặc trở lại nhà bố mẹ chồng.
Lễ cưới của người Dao thanh y và một số nhóm Dao khác cũng phức tạp không kém gì Dao quần trắng.
Tục sinh nở.
Trước đây, vì đời sống kin tế còn thiếu thốn, trong việc sinh đẻ, sự chăm sóc sản phụ, trẻ sơ sinh còn thiếu khoa học, mê tín dị đoan nặng nề nên nạn có đẻ không có nuôi rất phổ biến ở người Dao. Có nhóm Dao, dân số không những không tăng mà ngày càng giảm sút. Mong ước có trẻ nhỏ và nhiều trẻ nhỏ không chỉ của từng cặp vợ chồng riêng lẻ mà còn là của cả một tộc người. Mặc dù mọi người đều có mong muốn như vậy nhưng người Dao vẫn coi người phụ nữ có thai là không tin khiết và hình như họ còn có thể đem đến những rủi ro. Điều đó được thể hiện ở một số kiêng kị của sản phụ. Người mang thai không được đến nơi đặt bàn thờ (nhất là bàn thờ tổ tiên), không được tiếp xúc với thầy cúng, thày tào, không vào những nơi để hạt giống, để rượu. Ngoài ra, người có thai còn phải kiêng không được trèo cây, hái quả, không được bước qua thừng trâu, chạc ngựa. Không những thế, tháng nào cũng có những kiêng kị riêng, ví dụ như: tháng giêng, tháng bảy là tháng hồn ở cửa chính, kiêng không được đào đất, không được sửa chữa động đến cửa chính. Tháng hai, tháng tám là tháng hồn thai ở giữa sân, không được đào đất, đốt lửa hoặc đặt các vật nặng vào sân… Phụ nữ có thai thường hay e thẹn, nhất là Dao thanh y không muốn ai hỏi tới chuyện có thai. Những người có thai con so, đi đâu cũng phải lấy quạt che bụng hoặc cố để làm thế nào mọi người không biết mình đang có thai.
Người Dao đẻ ngồi. Sản phụ ngồi trên một cái ghế thấp chân tay bám vào một sợi dây thừng buộc  vào đòn tay nhà. Chồng hoặc mẹ chồng đỡ hộ, đôi khi sản phụ phải tự đỡ lấy, ít khi nhờ người ngoài. Đứa trẻ lọt lòng mẹ, người ta chờ khi nào nó khóc mới bế lên và tắm rửa bằng nước nóng. Chờ lâu mà đứa bé không khóc, người ta sẽ lấy sách cúng quạt cho nó, tin rằng làm như vậy đứa bé sẽ khóc và  thường sau này đứa bé được đặt tên là Slâu có nghia là sách. Rốn được cắt bằng dao nứa, nhau được cho vào sọt gác lên cây hoặc cho vào ống nứa đem lên rừng chôn ở chôn ở một nơi nào khô ráo, còn cuống rốn được sấy khô để làm thuốc chữa bệnh. Đẻ xong, sản phụ được uống nước gừng và các thức ăn nấu với gừng. Sản phụ không phải ăn khem quá kham khổ mà thường được ăn cơm nếp với thịt gà hoặc chân giò lợn nấu lẫn với các vị thuốc bổ. Nhà có người đẻ, cửa trước treo cành lá xanh hay cài hoa chuối rừng để làm dấu cấm cữ.
Khi đẻ sinh đôi, nếu là h1 trai 1 gái thì phải làm lễ hợp cần cho chúng, người ta cho rằng có làm như vậy thì mới nuôi được cả đôi. Trước đây còn có lệ tục là khi đứa bé mới lọt lòng mẹ mà không quay mặt về phía người mẹ thì bị cho là điềm xấu, phải cúng bái rất tốn kém mới dám nuôi, hoặc bỏ không nuôi. Sau khi sinh được 3-4 ngày, người ta phải làm lễ cúng tổ tiên và sau một tháng thì cúng mụ và đặt tên cho đứa bé. Lần thư nhất đặt tên cho đứa bé thường không chú ý đến chữ lót, thường đặt theo tên một vị thần hộ mệnh nào đó.
Từ sau cách mạng đến nay, trong việc sinh đẻ của người Dao đã có nhiều thay đổi: các tệ tục giảm dần, nạn không đẻ hoặc chết yểu đã được hạn chế đến mức tối đa, dân số Dao đã tăng lên rõ rệt. Có nhiều nhóm Dao, tỉ lệ sinh đẻ đã lên tới trên 4% dân số.

Đồng bào Dao cũng có quan niệm người chết là lìa khỏi cõi trần nhưng lại có một đời sống khác ở một thế giới khác, cuộc sống đó không khác gì cõi trần.
Quan niệm ấy được thể hiện rất rõ trong việc tang ma cho người chết. Gia đình nào có người chết, mọi ngươi trong nhà không được khóc ngay. Tang chủ phải đeo dao và buộc dây ngang thắt lưng đem hai gói muối, một chai rượu và vàng hương tới đặt trước cửa nhà thày tào lạy 3 lạy. Thày tào nhận lễ, đem cúng trước bàn thờ Tam thanh, sau đó tang chủ mới được vào nhà báo tang và mời tào đến “cầm đầu ma”. Tang chủ còn phải đến trước cửa từng nhà trong xóm để báo tang và xin hộ tang. Sau khi được báo, thày tào đến ngay nhà có người chết để làm lễ mai táng. Người chết mà đã được cấp sắc, khi tắt thở người ta bắn ba phát súng chỉ thiên để báo cho ngọc hoàng biết. Nếu là người đứng đầu làng, người ta còn phải chọc thủng nóc nhà và giương ô đặt ngay tại lỗ thủng ấy rồi mới bắn súng. Đồng bào rất e ngại giờ khâm liệm người chết trùng với giờ sinh của những người trong gia đình, vì tin rằng làm như vậy hồn người chết sẽ bắt người sống cùng đi. Nếu không nhớ giờ sinh của những người trong gia đình, khi làm lễ khâm liệm, mọi người phải lánh mặt. Người chết được nhập quan ngay tại nhà hay tại huyệt còn tùy thuộc vào tục lệ của từng nhóm Dao. Trước đây, có lẽ tất cả các nhóm Dao đều có tục hỏa táng, nay tục này chỉ còn thấy ở Dao áo dài hoặc chỉ còn tàn dư ở người Dao quần trắng. người chết được đặt nằm ở gian cạnh bếp, đầu quay về phía trước nhà. Người chết được nhập quan rồi mới đem thiêu. Thày tào tìm địa điểm hỏa táng rồi cho chất củi ở đó. Củi được xếp theo kiểu cũi lợn gồm có chín lớp. Áo quan đặt lên đống củi rồi thày tào báo cho mọi người ra về mới châm lửa thiêu. Sáng hôm sau, cả gia đình có người chết ra bới đóng tro tàn ấy nhặt lấy một ít xương vụn cho vào lọ đem đặt ở một địa điểm khác, nơi đặt lọ xương thường có mái che. Còn bao nhiêu xương và tro được chôn tại chỗ. Tuy nhiên, người ta cũng chỉ hỏa táng những người chết từ 12 tuổi trở lên.
Ngoài tục địa táng, hỏa táng, người Dao tiền còn có tục táng lộ thiên- táng trên sàn cao. Người chết vào giờ xấu không được chôn ngay mà cho vào một cỗ áo quan đặc biệt ghép bằng trúc hay nứa nguyên cây theo kiểu xếp cũi lợn, đặt trên sàn cao khoảng 2m. 4 cột sàn được làm thật nhẵn để thú rừng không leo lên được. Sau 1 năm, thịt rữa hết, xương được cho vào lọ đem chôn
Trong các đám tang của người Dao đều có lễ cúng đưa hồn người chết về quê hương cũ là đất Châu Dương.
Người Dao cũng có quần áo tang, nhưng nay nhiều nhóm chỉ có khăn tang. Sau khi mãn tang, người ta mời thày tào về làm lễ đoạn tang và lập bát hương thờ vong người chết. bát hương này hỉ thờ 3 năm thì hủy.
Mộ của người Dao thường ở phí đầu có một hòn đá, phía chân ba hòn đá xếp thành cái cổng nhỏ. Dao thanh y hoặc Dao quần trắng còn có nhà mồ. Những nơi để mồ mả nhất thiết không ai được làm nhà ở đó.
Những tục lệ vừa lạc hậu, vừa phiền hà lại tốn kém đang được bỏ dần. Về cưới hỏi, lệ thách cưới bằng bạc trắng hãy còn nhưng đã có thể thay bằng tiền giấy, tịt, rượu, gạo đã giảm đáng kể. Nhiều nơi đã tổ chức lễ cưới theo nếp sống mới. Về sinh đẻ, không còn nạn có đẻ mà không có nuôi mà tỉ lệ sinh đẻ đã tăng rất nhanh. Về ma chay, hầu như đã không còn lệ quản người chết ở lâu trong nhà, cúng bái ít đi, ăn uống cũng giảm, song chưa phải là bỏ hẳn.
Minh Trang

Ẩm thực của người Dao (Minh Phiếu)

Xôi: Giống như một số tộc người anh em, người Dao cũng thường xuyên đồ xôi để ăn trong những ngày Tết và lễ như: lễ vào nhà mới, lễ cưới hoặc trong những ngày gia đình nhờ anh em giúp cây ruộng, gieo trồng ngô lúa, làm chuồng trại gia súc. Đặc biệt, trong Tết Thanh minh nhiều nhà còn đồ xôi nhiều màu.

Ngoài cơm và xôi, đôi khi người Dao cũng ăn cháo, ăn các loại củ tự gieo trồng hoặc tìm kiếm từ trong rừng.

Quà bánh: Các loại quà bánh của người Dao cũng khá đa dạng như: bánh chưng, bánh dầy, bánh rán, bánh gio, bánh trôi, bánh chay, bánh đúc, bánh sừng bò... Trước đây, trong các ngày Tết Nguyên Đán và Tết 14 tháng 7 âm lịch người Dao làm nhiều bánh chưng đế đành ăn dần. Không ít gia đình trong suốt tháng giêng hoặc tháng 7 đều có bánh ăn.

Món chế biến từ thịt và thủy sản

Món xào: Khi thịt gà, thịt lợn, thịt dê, thịt bò người Dao thường đem sào gừng và nghệ. Đối với thịt lợn, thịt gà khi chế biến món sào đều cho một ít nước và thường cho thêm gừng. Một số món như thịt bò, thịt trâu còn tươi cũng được đem xào chín với gừng. Chỉ có lòng gan lợn. thịt chim, thịt chuột đồng, nhộng được xào khô và cho thêm hành, gừng hoặc lá chanh thái nhỏ và cho một ít rượu. Trường hợp xào cho nhiều người ăn còn nêm thêm một số hương vị như thảo quả, quế, gừng sả...

Món luộc: Để làm món thịt luộc, rửa sạch thịt và cắt thành miếng to bằng bàn tay. Sau đó bỏ vào nồi hoặc chảo, cho nước vừa đủ rồi bắc lên bếp lửa đun sôi, dùng đũa lật và chọc vào thịt để kiểm tra, nếu thấy chín đều thì vớt ra. Nước luộc thịt được đem nấu canh với rau cải, cải bắp hoặc với rau ngót, mồng tơi. Trước khi ăn, thịt luộc chín được đem thái hoặc chặt thành miếng nhà xếp vào bát, đ a hay đổ thịt ra lá dong, lá chuối.

Món hầm: Thịt hầm cũng được người Dao ưa thích. Món thịt hầm thường phải có thêm những thứ bô trợ như đu đủ, khoai sọ, măng khô, giá đậu tương, su hào... Tuỳ theo đặc điểm của món thịt hầm, họ có cho thêm một số gia vị như rượu, hành, hồ tiêu, củ sả, riềng, gừng...

Món nấu (o khấu): Trong các món ăn của người Dao, nếu so sánh với các món xào, luộc và hầm thì các món nấu từ thịt cũng không phải là ít. Họ rất thích ăn thịt lợn nạc nấu hoặc rim, nhất là thịt gà nấu canh gừng. Nhiều khi đậu phụ, trứng gà cũng được đem nấu canh. Ngoài ra, họ còn hay nấu canh thịt lợn nạc với phở hoặc miến dong, nấu xương lợn với bí đao... Khi bắt được những con cá to họ cũng hay đem nấu canh với gia vị. Nhìn chung, trong những ngày Tết hoặc lễ thường thấy xuất hiện nhiều món thịt nấu. Với ốc đồng hoặc ốc suối, họ thường đem rửa sạch, chặt đuôi rồi nấu canh nghệ, khi ăn thì mút lấy thịt bỏ vỏ.

Món rán: Món rán được chế biến khá đơn giản. Khi thấy chảo nóng thì cho mỡ vừa đủ, sau đó đập trứng hoặc cho đậu phụ hay cá xuống rán cho đến khi chín thì vớt ra, người chế biến món rán phải biết điều chỉnh ngọn lửa cho phù hợp và lật đồ rán cho khỏi bị cháy.

Món nướng: Trước đây khi thịt lợn, người Dao có thói quen lây ít gan có cả mật và thịt nạc đem ướp muối rồi dùng tre gắp lại, đặt cạnh than hồng để nướng. Khi chín gan được thái từng miếng, mật thì cho vào bát rượu, sau đó chia cho mọi người cùng ăn, thịt nướng thái ra bát cho trẻ con ăn.

Món ăn chế biến từ rau
Món rau nấu canh: Trong các món thức ăn hàng ngày, món rau nấu canh mặn hoặc nhạt là món chính. Bất kể loại rau nào cũng được người Dao đem nấu canh, chẳng hạn như rau cải, cà chua, bắp cải, đu đủ, su su, rau bí, rau rền, măng, mướp, bầu, bí, khoai sọ....

Món rau xào: Các loại rau như: mùi khai, ngọn khoai lang, lá non của cây sắn, rau cải làn, rau đớn thường được sào, ít dùng nấu canh. Tuy gọi là rau xào nhưng vẫn phải cho một ít nước để đun cho rau chín, tức là tránh cho rau bị cháy. So với món nấu thì món xắn thường cho muối mặn hơn.

Món hầm: Nhìn chung, món rau hàm thường phải có thịt hoặc xương hay cá thì mới ngon. Với người Dao, những món hầm bằng rau, củ hay quả thường ít cho các gia vị như hành, tỏi, gừng, lá tía tô...

 Món luộc: Trước đây, người Dao ở Vĩnh Phúc ít ăn món rau luộc, nguyên nhân có thể lúc đó nước mắm chưa được phổ biến. Hiện nay, đã ảnh hưởng từ văn hoá của người Việt láng giềng nên người Dao cũng ưa thích món rau luộc. Rất nhiều loại rau như rau cải, bắp cải, su hào, rau rền...được họ đem luộc ăn với nước chấm.

Thức uống
Người Dao có tập quán uống rượu từ lâu đời. Tuy vậy, chỉ có đàn ông Dao là hay uống rượu, nhất là khi nhà có khách. Còn nữ giới chỉ uống rượu thuốc để chữa bệnh hoặc trong dịp lễ Tết cũng như lúc có bạn bè.

Nước uống của người Dao là nước lã đun sôi với một loại rễ, lá cây rừng hoặc hạt vối vừa mát vừa bổ. Hiện nay, nhiều gia đình người Dao đã tự trồng chè nên nước chè xanh cũng là đồ uống phổ biến của họ.

Ứng xử trong ăn uống
Theo tập quán, cứ đến bữa ăn chính, tất cả các thành viên trong gia đình đều phải ngồi vào mâm cùng ăn uống. Về vị trí ngồi, hàng được gọi là phía trên là nơi ngồi của đàn ông, còn hàng phía dưới hoặc tiếp giáp bếp là chỗ ngồi của phụ nữ và trẻ con. Việc chia ra thành nhiều mâm để ăn uống thường chỉ xảy ra khi trong nhà có khách hoặc các thành viên quá đông, không đủ chỗ ngồi ăn cùng mâm. Tuy vậy, hiện nay cũng có một số gia đình thích chia ra thành 2 mâm để ăn uống cho thuận tiện. Khi đó, mâm trong gian bếp có bà, mẹ cùng con dâu và các cháu nhỏ, còn mâm trong gian khách có ông, bố cùng các con trai và các cháu trai lớn tuổi.

Trong ăn uống của người Dao, khi mọi người ngồi vào mâm phải chờ cho đủ cả gia đình mới được cầm bát đũa. Người Dao có thói quen trong bữa ăn mời, nhường nhịn và gắp thức ăn cho nhau. Bố mẹ gắp cho ông bà và con cái, ông bà gắp cho các cháu nhỏ. Khi thịt gà dù to hay bé đều đành bộ gan cho ông bà, đùi chân cho những đứa trẻ bé nhất, còn đầu cánh để cho những đứa lớn hơn. Trong bữa ăn, nếu có khách chủ nhà cũng không quên mời và luôn tay gắp miếng ăn ngon cho khách. Đúng theo tập quán trước kia, người Dan vừa ăn cơm vừa uống rượu, khách thường nhấc chén uống rượu mỗi khi chủ nhà nâng chén mời nhưng không chạm chén. Do vậy, khách cần dựa theo khả năng của mình mà uống nhiều hay ít mỗi khi nhấc chén uống rượu. Khi uống cạn chén khách cứ tụ nhiên để cho chủ nhà rót rượu xuống. Nếu cảm thấy không muốn uống nữa thì lấy tay đẩy nhẹ miệng chai lên mỗi khi thấy chủ nhà định rót rượu xuống chén của mình. Khi ăn cơm xong hoặc đang ăn không được để đũa lên miệng bắt, bởi vì họ quan niệm rằng chỉ trong những ngày ma chay hoặc xới cơm cúng vong hồn người chết mới được để đũa như vậy.

Đối với các nghi lễ của người Dao như đám cưới, vào nhà mới, đám ma, có một số món ăn thường được chế biến theo chuẩn mực đã được tập quán cộng đồng quy định. Chẳng hạn, trong đám cưới thường phải có các món như: xôi, thịt lợn luộc, thịt gà thiến, xương lợn nấu với một số món như măng, đậu tương hầm... Nhìn chung, nếu đám cưới to thì có khá nhiều món và được chế biến như trong những ngày Tết Nguyên đán. Trong lễ cấp sắc, họ thường ăn thịt lợn, thịt gà cùng với một số món như cá suối và thịt sóc để cúng lễ. Còn trong đám ma có thịt lợn luộc, thịt lợn xào, rau cải nấu, nhất thiết phải có món đu đủ nấu hoặc bi chuối rừng nấu với xương lợn. Về cách sắp xếp số lượng người ngồi ăn trong mâm cũng tuỳ theo từng nghi lễ. Còn vị trí ngồi, được xếp theo giới, ngôi thứ, vị thế trong dòng họ, theo tuổi tác và địa vị của khách. Tuy vậy, vị trí ngồi còn phải tuỳ theo sự quy định của từng loại nghi lễ.

Minh Phiếu
Xôi: Giống như một số tộc người anh em, người Dao cũng thường xuyên đồ xôi để ăn trong những ngày Tết và lễ như: lễ vào nhà mới, lễ cưới hoặc trong những ngày gia đình nhờ anh em giúp cây ruộng, gieo trồng ngô lúa, làm chuồng trại gia súc. Đặc biệt, trong Tết Thanh minh nhiều nhà còn đồ xôi nhiều màu.

Ngoài cơm và xôi, đôi khi người Dao cũng ăn cháo, ăn các loại củ tự gieo trồng hoặc tìm kiếm từ trong rừng.

Quà bánh: Các loại quà bánh của người Dao cũng khá đa dạng như: bánh chưng, bánh dầy, bánh rán, bánh gio, bánh trôi, bánh chay, bánh đúc, bánh sừng bò... Trước đây, trong các ngày Tết Nguyên Đán và Tết 14 tháng 7 âm lịch người Dao làm nhiều bánh chưng đế đành ăn dần. Không ít gia đình trong suốt tháng giêng hoặc tháng 7 đều có bánh ăn.

Món chế biến từ thịt và thủy sản

Món xào: Khi thịt gà, thịt lợn, thịt dê, thịt bò người Dao thường đem sào gừng và nghệ. Đối với thịt lợn, thịt gà khi chế biến món sào đều cho một ít nước và thường cho thêm gừng. Một số món như thịt bò, thịt trâu còn tươi cũng được đem xào chín với gừng. Chỉ có lòng gan lợn. thịt chim, thịt chuột đồng, nhộng được xào khô và cho thêm hành, gừng hoặc lá chanh thái nhỏ và cho một ít rượu. Trường hợp xào cho nhiều người ăn còn nêm thêm một số hương vị như thảo quả, quế, gừng sả...

Món luộc: Để làm món thịt luộc, rửa sạch thịt và cắt thành miếng to bằng bàn tay. Sau đó bỏ vào nồi hoặc chảo, cho nước vừa đủ rồi bắc lên bếp lửa đun sôi, dùng đũa lật và chọc vào thịt để kiểm tra, nếu thấy chín đều thì vớt ra. Nước luộc thịt được đem nấu canh với rau cải, cải bắp hoặc với rau ngót, mồng tơi. Trước khi ăn, thịt luộc chín được đem thái hoặc chặt thành miếng nhà xếp vào bát, đ a hay đổ thịt ra lá dong, lá chuối.

Món hầm: Thịt hầm cũng được người Dao ưa thích. Món thịt hầm thường phải có thêm những thứ bô trợ như đu đủ, khoai sọ, măng khô, giá đậu tương, su hào... Tuỳ theo đặc điểm của món thịt hầm, họ có cho thêm một số gia vị như rượu, hành, hồ tiêu, củ sả, riềng, gừng...

Món nấu (o khấu): Trong các món ăn của người Dao, nếu so sánh với các món xào, luộc và hầm thì các món nấu từ thịt cũng không phải là ít. Họ rất thích ăn thịt lợn nạc nấu hoặc rim, nhất là thịt gà nấu canh gừng. Nhiều khi đậu phụ, trứng gà cũng được đem nấu canh. Ngoài ra, họ còn hay nấu canh thịt lợn nạc với phở hoặc miến dong, nấu xương lợn với bí đao... Khi bắt được những con cá to họ cũng hay đem nấu canh với gia vị. Nhìn chung, trong những ngày Tết hoặc lễ thường thấy xuất hiện nhiều món thịt nấu. Với ốc đồng hoặc ốc suối, họ thường đem rửa sạch, chặt đuôi rồi nấu canh nghệ, khi ăn thì mút lấy thịt bỏ vỏ.

Món rán: Món rán được chế biến khá đơn giản. Khi thấy chảo nóng thì cho mỡ vừa đủ, sau đó đập trứng hoặc cho đậu phụ hay cá xuống rán cho đến khi chín thì vớt ra, người chế biến món rán phải biết điều chỉnh ngọn lửa cho phù hợp và lật đồ rán cho khỏi bị cháy.

Món nướng: Trước đây khi thịt lợn, người Dao có thói quen lây ít gan có cả mật và thịt nạc đem ướp muối rồi dùng tre gắp lại, đặt cạnh than hồng để nướng. Khi chín gan được thái từng miếng, mật thì cho vào bát rượu, sau đó chia cho mọi người cùng ăn, thịt nướng thái ra bát cho trẻ con ăn.

Món ăn chế biến từ rau
Món rau nấu canh: Trong các món thức ăn hàng ngày, món rau nấu canh mặn hoặc nhạt là món chính. Bất kể loại rau nào cũng được người Dao đem nấu canh, chẳng hạn như rau cải, cà chua, bắp cải, đu đủ, su su, rau bí, rau rền, măng, mướp, bầu, bí, khoai sọ....

Món rau xào: Các loại rau như: mùi khai, ngọn khoai lang, lá non của cây sắn, rau cải làn, rau đớn thường được sào, ít dùng nấu canh. Tuy gọi là rau xào nhưng vẫn phải cho một ít nước để đun cho rau chín, tức là tránh cho rau bị cháy. So với món nấu thì món xắn thường cho muối mặn hơn.

Món hầm: Nhìn chung, món rau hàm thường phải có thịt hoặc xương hay cá thì mới ngon. Với người Dao, những món hầm bằng rau, củ hay quả thường ít cho các gia vị như hành, tỏi, gừng, lá tía tô...

 Món luộc: Trước đây, người Dao ở Vĩnh Phúc ít ăn món rau luộc, nguyên nhân có thể lúc đó nước mắm chưa được phổ biến. Hiện nay, đã ảnh hưởng từ văn hoá của người Việt láng giềng nên người Dao cũng ưa thích món rau luộc. Rất nhiều loại rau như rau cải, bắp cải, su hào, rau rền...được họ đem luộc ăn với nước chấm.

Thức uống
Người Dao có tập quán uống rượu từ lâu đời. Tuy vậy, chỉ có đàn ông Dao là hay uống rượu, nhất là khi nhà có khách. Còn nữ giới chỉ uống rượu thuốc để chữa bệnh hoặc trong dịp lễ Tết cũng như lúc có bạn bè.

Nước uống của người Dao là nước lã đun sôi với một loại rễ, lá cây rừng hoặc hạt vối vừa mát vừa bổ. Hiện nay, nhiều gia đình người Dao đã tự trồng chè nên nước chè xanh cũng là đồ uống phổ biến của họ.

Ứng xử trong ăn uống
Theo tập quán, cứ đến bữa ăn chính, tất cả các thành viên trong gia đình đều phải ngồi vào mâm cùng ăn uống. Về vị trí ngồi, hàng được gọi là phía trên là nơi ngồi của đàn ông, còn hàng phía dưới hoặc tiếp giáp bếp là chỗ ngồi của phụ nữ và trẻ con. Việc chia ra thành nhiều mâm để ăn uống thường chỉ xảy ra khi trong nhà có khách hoặc các thành viên quá đông, không đủ chỗ ngồi ăn cùng mâm. Tuy vậy, hiện nay cũng có một số gia đình thích chia ra thành 2 mâm để ăn uống cho thuận tiện. Khi đó, mâm trong gian bếp có bà, mẹ cùng con dâu và các cháu nhỏ, còn mâm trong gian khách có ông, bố cùng các con trai và các cháu trai lớn tuổi.

Trong ăn uống của người Dao, khi mọi người ngồi vào mâm phải chờ cho đủ cả gia đình mới được cầm bát đũa. Người Dao có thói quen trong bữa ăn mời, nhường nhịn và gắp thức ăn cho nhau. Bố mẹ gắp cho ông bà và con cái, ông bà gắp cho các cháu nhỏ. Khi thịt gà dù to hay bé đều đành bộ gan cho ông bà, đùi chân cho những đứa trẻ bé nhất, còn đầu cánh để cho những đứa lớn hơn. Trong bữa ăn, nếu có khách chủ nhà cũng không quên mời và luôn tay gắp miếng ăn ngon cho khách. Đúng theo tập quán trước kia, người Dan vừa ăn cơm vừa uống rượu, khách thường nhấc chén uống rượu mỗi khi chủ nhà nâng chén mời nhưng không chạm chén. Do vậy, khách cần dựa theo khả năng của mình mà uống nhiều hay ít mỗi khi nhấc chén uống rượu. Khi uống cạn chén khách cứ tụ nhiên để cho chủ nhà rót rượu xuống. Nếu cảm thấy không muốn uống nữa thì lấy tay đẩy nhẹ miệng chai lên mỗi khi thấy chủ nhà định rót rượu xuống chén của mình. Khi ăn cơm xong hoặc đang ăn không được để đũa lên miệng bắt, bởi vì họ quan niệm rằng chỉ trong những ngày ma chay hoặc xới cơm cúng vong hồn người chết mới được để đũa như vậy.

Đối với các nghi lễ của người Dao như đám cưới, vào nhà mới, đám ma, có một số món ăn thường được chế biến theo chuẩn mực đã được tập quán cộng đồng quy định. Chẳng hạn, trong đám cưới thường phải có các món như: xôi, thịt lợn luộc, thịt gà thiến, xương lợn nấu với một số món như măng, đậu tương hầm... Nhìn chung, nếu đám cưới to thì có khá nhiều món và được chế biến như trong những ngày Tết Nguyên đán. Trong lễ cấp sắc, họ thường ăn thịt lợn, thịt gà cùng với một số món như cá suối và thịt sóc để cúng lễ. Còn trong đám ma có thịt lợn luộc, thịt lợn xào, rau cải nấu, nhất thiết phải có món đu đủ nấu hoặc bi chuối rừng nấu với xương lợn. Về cách sắp xếp số lượng người ngồi ăn trong mâm cũng tuỳ theo từng nghi lễ. Còn vị trí ngồi, được xếp theo giới, ngôi thứ, vị thế trong dòng họ, theo tuổi tác và địa vị của khách. Tuy vậy, vị trí ngồi còn phải tuỳ theo sự quy định của từng loại nghi lễ.

Minh Phiếu

Bản người Dao bên thác Mạ Héc ( Giang Lam)

Đám cưới của người Dao đỏ Thôm Táu.

Nắng chan hòa tỏa xuống những mái nhà sàn. Xa xa, thấp thoáng bóng dáng sơn nữ xinh tươi trong váy áo truyền thống khiến khung cảnh ngày mới của bản người Dao thôn Thôm Táu, xã Phù Lưu (Hàm Yên) hiện lên thật nên thơ, trữ tình.
Giai điệu bản Dao

Thôn Thôm Táu, xã Phù Lưu nằm nép mình dưới chân núi Cham Chu, cách chân thác Mạ Héc chừng vài trăm mét. Bao năm qua, hơn 40 nóc nhà người Dao đỏ quần tụ tạo nên những giá trị văn hóa độc đáo. Ông Phượng Quỳ Phẫu, một trong những người già nhất bản bảo, từ xưa đến nay phong tục tập quán truyền thống của người Dao đỏ vẫn luôn được dân bản giữ gìn ngay từ nếp sống sinh hoạt hàng ngày đến nghi thức cúng bái, cưới hỏi, ma chay… Bản có gần 200 nhân khẩu, từ trước đến nay những người biết hát Páo dung, thổi kèn Pí lè luôn được trọng dụng. Ngày ngày bên sườn núi, giai điệu ấy lại được cất lên, lúc thì nhẹ nhàng như tiếng suối bản Táu, lúc thì lảnh lót, rộn ràng tựa tiếng thác Mạ Héc chảy ngày đêm.

Ông Đặng Chạn Trìu năm nay ngoài 50 tuổi được cả bản “phong” là nghệ nhân bởi khả năng thổi kèn Pí lè khá điêu luyện. Gặp chúng tôi, ông  cầm chiếc kèn Pí lè trên tay, khẽ thổi một giai điệu giao duyên da diết. Thanh âm núi rừng hòa điệu nhịp nhàng cùng những ngón tay lướt nhẹ trên thân kèn khiến người nghe như được đắm chìm trong không gian của đại ngàn. Tiếng kèn của ông có mặt tại tất cả đám cưới, đám chay, lễ cầu mùa, lễ cấp sắc của làng. Tại Liên hoan Câu lạc bộ đàn hát dân ca và gia đình văn nghệ toàn tỉnh, Ngày hội Văn hóa dân tộc tại Đồng Mô, Sơn Tây (Hà Nội) giai điệu Pí lè cũng được ông ngân vang làm say đắm bao du khách gần xa. Có thâm niên gần 40 năm, ông Trìu thổi kèn thành thục 72 giai điệu, mỗi bản nhạc được cất lên tùy theo hoàn cảnh: lúc rộn ràng tha thiết trong đám cưới, lúc ai oán, nỉ non trong đám tang, lúc cao vút tự hào trong ngày trai làng làm lễ cấp sắc... Đối với người Dao nơi đây, tiếng kèn tựa linh hồn, tựa tiếng nói của những vị thần trên cao. 

Ngọn nguồn sức sống ấy được hòa nhịp cùng làn điệu Páo dung mà trai gái Thôm Táu ngày đêm vẫn say sưa hát: “Em bảo suốt đời em vẫn đợi/Yêu anh hơn cả rừng yêu cây…”. Niềm vui của các già làng đó là nhiều người trẻ trong bản biết hát Páo dung. Mỗi dịp lễ hội, bản làng lại rộn ràng những khúc ca tình yêu. Những lời đối đáp ý nhị ấy có sức quyễn rũ lạ kỳ khiến bao người không ai muốn về dù tiếng gà gáy báo canh ba, canh tư. Tiếng hát như vượt thời gian, vượt cả không gian: “Em bay lên trời anh cũng đuổi/Em trốn vào sao anh cũng tìm...”. Từ năm 15 tuổi, chị Bàn Thị Thủy đã thuộc làu những câu hát, khiến nhiều người nể phục. Chị bảo, ở đây ai mà không biết hát thì xấu hổ với bạn bè lắm.

Ông Đặng Chạn Trìu và chiếc kèn Pí lè.

Các chàng trai, cô gái không ai bảo ai, đều tìm cho mình một người dạy hát. Lên nương, xuống chợ học được câu hát nào hay và giữ nó như một tài sản riêng của mình. Đến khi nam nữ tụ tập hát giao duyên, lời ca đó được cất lên khiến mọi người vỗ tay tán thưởng, khen ngợi là hạnh phúc lắm. Còn anh Triệu Văn Sịu được biết đến với giọng hát Páo dung trầm ấm, khỏe khoắn, anh bảo: “Đi xem người ta hát, múa, nhiều lần vậy là tự khắc vào đầu mình thôi. Đến năm 13 tuổi, tôi đã theo các chàng trai sang tận làng bên hát tìm bạn rồi đấy...”. Chị Muông đưa ánh mắt sắc lẹm nhìn chồng rồi tủm tỉm cười khi nhớ lại chuyện hai người gặp nhau trong đêm Páo dung ngày ấy. Thời gian như thoi đưa, cả hai đã bước sang tuổi tứ tuần nhưng trong những dịp lễ làng, họ vẫn tình tứ trong lời ca ý nhị, rất riêng của người Dao nơi đây: “Đôi mắt em trong ngần như nước Mạ Héc/Nụ cười khiến anh lạc vào chốn rừng sâu/Tiếng hát du dương vọng vào vách núi/ Rẽ lối đường rừng giúp anh vượt qua đỉnh Cham Chu”.

Chuyện những người vượt khó
Đến Thôm Táu chúng tôi không chỉ được hòa mình vào làn điệu Páo dung và âm thanh tha thiết của kèn Pí lè mà còn được nghe kể về những con người vượt khó vươn lên làm giàu ở mảnh đất này.

Anh Đặng Văn Sỉnh là người duy nhất có cơ thể lành lặn như bao người bình thường khác trong một gia đình có bố mẹ và anh chị đều bị câm điếc bẩm sinh, ngờ ngệch, không có khả năng lao động. Tuổi thơ của anh gắn bó với căn nhà lá tồi tàn, qua mỗi mùa mưa gió lại càng xơ xác thêm. Lên 10 tuổi, Sỉnh trở thành lao động chính trong gia đình. Ngày ngày mò cua bắt ốc, lên rừng đốn củi, làm thuê cuốc mướn để kiếm tiền đong gạo. Năm 15 tuổi, bố anh ra đi trong một cơn bạo bệnh để lại người mẹ già và hai anh chị tàn tật. Bao gánh nặng cuộc đời cứ đè chặt lên vai, Sình như già trước tuổi. Ước mơ được bù đắp người thân những thiệt thòi, thiếu thốn khiến Sỉnh có thêm động lực sống và vươn lên. Sống trên mảnh đất của những vựa cam ngon nổi tiếng ý tưởng làm giàu từ cây cam cũng là điều dễ hiểu.

Phụ nữ dân tộc Dao đỏ.

Sau thời gian tìm hiểu học hỏi kiến thức của những hộ trồng cam có kinh nghiệm, anh vay ngân hàng 10 triệu đồng để làm vốn và bắt tay vào làm kinh tế. Ngày qua ngày, một mình anh vật lộn với những khu đồi: Dọn thực bì, thu gom lau sậy đốt thành tro tãi cho đất đai màu mỡ. Anh cứ chăm chỉ như một con ong hút mật: Khai hoang gần 3 ha đất, hạ thổ hàng trăm gốc cam, đợi ngày ra hoa kết trái... Nhờ áp dụng đúng khoa học kỹ thuật, đất không phụ công người giờ đây anh đã có vườn cam sai quả với mức thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm. Gia đình Sỉnh trở thành hộ khá giả trong thôn, căn nhà bằng gỗ 3 gian được đánh véc ni sáng bóng là món quà mà anh dành tặng cho mẹ và anh chị của mình.

Bắt đầu cuộc sống từ hai bàn tay trắng, trải qua biết bao gian nan trên con đường lập nghiệp, vợ chồng anh chị Phường Văn Nải - Đặng Thị Khế trở thành tấm gương về nghị lực, ý chí vươn lên của người dân bản Dao. Ra ở riêng từ năm 1990, cuộc sống vô cùng chật vật, cơm không đủ ăn, gia đình anh phải sống trong một túp lều nhỏ. Không tiền, đất canh tác lại ít, vay được ít vốn từ bạn bè, anh đầu tư vào trồng 2 ha cam. Anh nhớ lại, 300 gốc cam được hạ thổ mong chờ ngày thu hái, có tiền đong gạo nuôi vợ nuôi con. Thế nhưng hàng trăm gốc cam vừa mới vươn cành nảy lộc đã bị sâu bệnh phá hoại, còi cọc.

Ba năm trời, mặc cho người trồng chăm bón cam nhưng lời lãi chẳng được bao nhiêu, không đủ tiền trả nợ, lãi mẹ đẻ lãi con, thế là nhà vốn đã nghèo lại càng nghèo thêm. Vừa lo miếng cơm manh áo vừa lo trả tiền lãi, vợ chồng anh chăm chỉ đi làm thuê mong kiếm thêm thu nhập,  lúc thì nhận chăm sóc cam lúc thì hái cam, gánh cam… vừa làm vừa tích góp kinh nghiệm. Phải đến hai năm sau, anh mới có tiền mua thêm cây giống, đầu tư phân bón trồng cam. Thấm thoát, cả khu đồi đã được điểm tô bởi màu trắng của hoa cam, những quả nhỏ xíu bằng đầu ngón tay dần xuất hiện. Thế nhưng đôi khi ông trời cũng muốn thử lòng kiên trì của con người, một trận mưa đá đổ xuống đúng lúc cây đang độ quả, thế là thành công cốc...

Anh buồn bã khi nhìn đồi cam xơ xác như bị quái vật quật ngã, hình ảnh về đồi cam sai trĩu quả nhạt nhòa trước mắt. Khó khăn chồng chất khó khăn nhưng hoàn cảnh không bao giờ khuất phục những người có lòng quyết tâm. Năm 2009, cơ hội đến với anh khi có người muốn bán một vườn rộng 2 ha và đã có 400 gốc cam trồng sẵn, anh quyết định mua mặc cho sự ngăn cản của nhiều người. Thuyết phục bố mẹ, thuyết phục bạn bè, chạy vạy vay mượn, gom góp mãi cũng đủ tiền mua mảnh vườn. May mắn thực sự đến, cuối năm thu hoạch, cam được giá gấp đôi, 6.000 đồng/kg. Vụ đầu tiên thắng lợi thu hoạch được 6 tấn, tính ra là được gần 40 triệu đồng. Có chút vốn giắt lưng, anh đầu tư trồng thêm 800 gốc cam, thấm thoắt khu đồi rộng 3 ha đã được phủ lên màu xanh của cây cam. Giờ đây, cuộc sống gia đình anh khá giả hơn trước, mức thu nhập 300 triệu đồng/năm từ đồi cam. Mọi tiện nghi từ xe máy, ti vi, tủ lạnh, máy giặt đều được vợ chồng anh mua sắm đầy đủ.

Thôm Táu hôm nay đang vươn mình, những đồi cam tốt tươi như phủ xanh khắp bản làng mang lại ấm no, hạnh phúc cho người dân. Năm 2012, bản còn 11 hộ nghèo, nay chỉ còn 8 hộ; thôn hiện có hơn 10 hộ mức thu nhập 100 triệu đồng/năm trở lên. Sau những cơn mưa xuân lất phất, cây rừng Cham Chu vươn những chồi non xanh biêng biếc. Chia tay Thôm Táu, từ xa xa vẫn còn vang vọng tiếng thác Mạ Héc. Âm thanh ngày đêm của rừng già hòa nhịp cùng tiếng hát Páo dung tạo nên một bản giao hưởng cuộc sống mang về ấm no, bình yên.

Giang Lam
Đám cưới của người Dao đỏ Thôm Táu.

Nắng chan hòa tỏa xuống những mái nhà sàn. Xa xa, thấp thoáng bóng dáng sơn nữ xinh tươi trong váy áo truyền thống khiến khung cảnh ngày mới của bản người Dao thôn Thôm Táu, xã Phù Lưu (Hàm Yên) hiện lên thật nên thơ, trữ tình.
Giai điệu bản Dao

Thôn Thôm Táu, xã Phù Lưu nằm nép mình dưới chân núi Cham Chu, cách chân thác Mạ Héc chừng vài trăm mét. Bao năm qua, hơn 40 nóc nhà người Dao đỏ quần tụ tạo nên những giá trị văn hóa độc đáo. Ông Phượng Quỳ Phẫu, một trong những người già nhất bản bảo, từ xưa đến nay phong tục tập quán truyền thống của người Dao đỏ vẫn luôn được dân bản giữ gìn ngay từ nếp sống sinh hoạt hàng ngày đến nghi thức cúng bái, cưới hỏi, ma chay… Bản có gần 200 nhân khẩu, từ trước đến nay những người biết hát Páo dung, thổi kèn Pí lè luôn được trọng dụng. Ngày ngày bên sườn núi, giai điệu ấy lại được cất lên, lúc thì nhẹ nhàng như tiếng suối bản Táu, lúc thì lảnh lót, rộn ràng tựa tiếng thác Mạ Héc chảy ngày đêm.

Ông Đặng Chạn Trìu năm nay ngoài 50 tuổi được cả bản “phong” là nghệ nhân bởi khả năng thổi kèn Pí lè khá điêu luyện. Gặp chúng tôi, ông  cầm chiếc kèn Pí lè trên tay, khẽ thổi một giai điệu giao duyên da diết. Thanh âm núi rừng hòa điệu nhịp nhàng cùng những ngón tay lướt nhẹ trên thân kèn khiến người nghe như được đắm chìm trong không gian của đại ngàn. Tiếng kèn của ông có mặt tại tất cả đám cưới, đám chay, lễ cầu mùa, lễ cấp sắc của làng. Tại Liên hoan Câu lạc bộ đàn hát dân ca và gia đình văn nghệ toàn tỉnh, Ngày hội Văn hóa dân tộc tại Đồng Mô, Sơn Tây (Hà Nội) giai điệu Pí lè cũng được ông ngân vang làm say đắm bao du khách gần xa. Có thâm niên gần 40 năm, ông Trìu thổi kèn thành thục 72 giai điệu, mỗi bản nhạc được cất lên tùy theo hoàn cảnh: lúc rộn ràng tha thiết trong đám cưới, lúc ai oán, nỉ non trong đám tang, lúc cao vút tự hào trong ngày trai làng làm lễ cấp sắc... Đối với người Dao nơi đây, tiếng kèn tựa linh hồn, tựa tiếng nói của những vị thần trên cao. 

Ngọn nguồn sức sống ấy được hòa nhịp cùng làn điệu Páo dung mà trai gái Thôm Táu ngày đêm vẫn say sưa hát: “Em bảo suốt đời em vẫn đợi/Yêu anh hơn cả rừng yêu cây…”. Niềm vui của các già làng đó là nhiều người trẻ trong bản biết hát Páo dung. Mỗi dịp lễ hội, bản làng lại rộn ràng những khúc ca tình yêu. Những lời đối đáp ý nhị ấy có sức quyễn rũ lạ kỳ khiến bao người không ai muốn về dù tiếng gà gáy báo canh ba, canh tư. Tiếng hát như vượt thời gian, vượt cả không gian: “Em bay lên trời anh cũng đuổi/Em trốn vào sao anh cũng tìm...”. Từ năm 15 tuổi, chị Bàn Thị Thủy đã thuộc làu những câu hát, khiến nhiều người nể phục. Chị bảo, ở đây ai mà không biết hát thì xấu hổ với bạn bè lắm.

Ông Đặng Chạn Trìu và chiếc kèn Pí lè.

Các chàng trai, cô gái không ai bảo ai, đều tìm cho mình một người dạy hát. Lên nương, xuống chợ học được câu hát nào hay và giữ nó như một tài sản riêng của mình. Đến khi nam nữ tụ tập hát giao duyên, lời ca đó được cất lên khiến mọi người vỗ tay tán thưởng, khen ngợi là hạnh phúc lắm. Còn anh Triệu Văn Sịu được biết đến với giọng hát Páo dung trầm ấm, khỏe khoắn, anh bảo: “Đi xem người ta hát, múa, nhiều lần vậy là tự khắc vào đầu mình thôi. Đến năm 13 tuổi, tôi đã theo các chàng trai sang tận làng bên hát tìm bạn rồi đấy...”. Chị Muông đưa ánh mắt sắc lẹm nhìn chồng rồi tủm tỉm cười khi nhớ lại chuyện hai người gặp nhau trong đêm Páo dung ngày ấy. Thời gian như thoi đưa, cả hai đã bước sang tuổi tứ tuần nhưng trong những dịp lễ làng, họ vẫn tình tứ trong lời ca ý nhị, rất riêng của người Dao nơi đây: “Đôi mắt em trong ngần như nước Mạ Héc/Nụ cười khiến anh lạc vào chốn rừng sâu/Tiếng hát du dương vọng vào vách núi/ Rẽ lối đường rừng giúp anh vượt qua đỉnh Cham Chu”.

Chuyện những người vượt khó
Đến Thôm Táu chúng tôi không chỉ được hòa mình vào làn điệu Páo dung và âm thanh tha thiết của kèn Pí lè mà còn được nghe kể về những con người vượt khó vươn lên làm giàu ở mảnh đất này.

Anh Đặng Văn Sỉnh là người duy nhất có cơ thể lành lặn như bao người bình thường khác trong một gia đình có bố mẹ và anh chị đều bị câm điếc bẩm sinh, ngờ ngệch, không có khả năng lao động. Tuổi thơ của anh gắn bó với căn nhà lá tồi tàn, qua mỗi mùa mưa gió lại càng xơ xác thêm. Lên 10 tuổi, Sỉnh trở thành lao động chính trong gia đình. Ngày ngày mò cua bắt ốc, lên rừng đốn củi, làm thuê cuốc mướn để kiếm tiền đong gạo. Năm 15 tuổi, bố anh ra đi trong một cơn bạo bệnh để lại người mẹ già và hai anh chị tàn tật. Bao gánh nặng cuộc đời cứ đè chặt lên vai, Sình như già trước tuổi. Ước mơ được bù đắp người thân những thiệt thòi, thiếu thốn khiến Sỉnh có thêm động lực sống và vươn lên. Sống trên mảnh đất của những vựa cam ngon nổi tiếng ý tưởng làm giàu từ cây cam cũng là điều dễ hiểu.

Phụ nữ dân tộc Dao đỏ.

Sau thời gian tìm hiểu học hỏi kiến thức của những hộ trồng cam có kinh nghiệm, anh vay ngân hàng 10 triệu đồng để làm vốn và bắt tay vào làm kinh tế. Ngày qua ngày, một mình anh vật lộn với những khu đồi: Dọn thực bì, thu gom lau sậy đốt thành tro tãi cho đất đai màu mỡ. Anh cứ chăm chỉ như một con ong hút mật: Khai hoang gần 3 ha đất, hạ thổ hàng trăm gốc cam, đợi ngày ra hoa kết trái... Nhờ áp dụng đúng khoa học kỹ thuật, đất không phụ công người giờ đây anh đã có vườn cam sai quả với mức thu nhập hơn 200 triệu đồng/năm. Gia đình Sỉnh trở thành hộ khá giả trong thôn, căn nhà bằng gỗ 3 gian được đánh véc ni sáng bóng là món quà mà anh dành tặng cho mẹ và anh chị của mình.

Bắt đầu cuộc sống từ hai bàn tay trắng, trải qua biết bao gian nan trên con đường lập nghiệp, vợ chồng anh chị Phường Văn Nải - Đặng Thị Khế trở thành tấm gương về nghị lực, ý chí vươn lên của người dân bản Dao. Ra ở riêng từ năm 1990, cuộc sống vô cùng chật vật, cơm không đủ ăn, gia đình anh phải sống trong một túp lều nhỏ. Không tiền, đất canh tác lại ít, vay được ít vốn từ bạn bè, anh đầu tư vào trồng 2 ha cam. Anh nhớ lại, 300 gốc cam được hạ thổ mong chờ ngày thu hái, có tiền đong gạo nuôi vợ nuôi con. Thế nhưng hàng trăm gốc cam vừa mới vươn cành nảy lộc đã bị sâu bệnh phá hoại, còi cọc.

Ba năm trời, mặc cho người trồng chăm bón cam nhưng lời lãi chẳng được bao nhiêu, không đủ tiền trả nợ, lãi mẹ đẻ lãi con, thế là nhà vốn đã nghèo lại càng nghèo thêm. Vừa lo miếng cơm manh áo vừa lo trả tiền lãi, vợ chồng anh chăm chỉ đi làm thuê mong kiếm thêm thu nhập,  lúc thì nhận chăm sóc cam lúc thì hái cam, gánh cam… vừa làm vừa tích góp kinh nghiệm. Phải đến hai năm sau, anh mới có tiền mua thêm cây giống, đầu tư phân bón trồng cam. Thấm thoát, cả khu đồi đã được điểm tô bởi màu trắng của hoa cam, những quả nhỏ xíu bằng đầu ngón tay dần xuất hiện. Thế nhưng đôi khi ông trời cũng muốn thử lòng kiên trì của con người, một trận mưa đá đổ xuống đúng lúc cây đang độ quả, thế là thành công cốc...

Anh buồn bã khi nhìn đồi cam xơ xác như bị quái vật quật ngã, hình ảnh về đồi cam sai trĩu quả nhạt nhòa trước mắt. Khó khăn chồng chất khó khăn nhưng hoàn cảnh không bao giờ khuất phục những người có lòng quyết tâm. Năm 2009, cơ hội đến với anh khi có người muốn bán một vườn rộng 2 ha và đã có 400 gốc cam trồng sẵn, anh quyết định mua mặc cho sự ngăn cản của nhiều người. Thuyết phục bố mẹ, thuyết phục bạn bè, chạy vạy vay mượn, gom góp mãi cũng đủ tiền mua mảnh vườn. May mắn thực sự đến, cuối năm thu hoạch, cam được giá gấp đôi, 6.000 đồng/kg. Vụ đầu tiên thắng lợi thu hoạch được 6 tấn, tính ra là được gần 40 triệu đồng. Có chút vốn giắt lưng, anh đầu tư trồng thêm 800 gốc cam, thấm thoắt khu đồi rộng 3 ha đã được phủ lên màu xanh của cây cam. Giờ đây, cuộc sống gia đình anh khá giả hơn trước, mức thu nhập 300 triệu đồng/năm từ đồi cam. Mọi tiện nghi từ xe máy, ti vi, tủ lạnh, máy giặt đều được vợ chồng anh mua sắm đầy đủ.

Thôm Táu hôm nay đang vươn mình, những đồi cam tốt tươi như phủ xanh khắp bản làng mang lại ấm no, hạnh phúc cho người dân. Năm 2012, bản còn 11 hộ nghèo, nay chỉ còn 8 hộ; thôn hiện có hơn 10 hộ mức thu nhập 100 triệu đồng/năm trở lên. Sau những cơn mưa xuân lất phất, cây rừng Cham Chu vươn những chồi non xanh biêng biếc. Chia tay Thôm Táu, từ xa xa vẫn còn vang vọng tiếng thác Mạ Héc. Âm thanh ngày đêm của rừng già hòa nhịp cùng tiếng hát Páo dung tạo nên một bản giao hưởng cuộc sống mang về ấm no, bình yên.

Giang Lam

Lễ cấp sắc của người Dao ( Đàm Minh Phượng)

Lễ cấp sắc của người Dao

Tục cấp sắc được xem là buổi lễ quan trọng trong cuộc đời của người Dao, đặc biệt là những người đàn ông Dao. Trong những ngày diễn ra cấp sắc, người thụ lễ không được nói tục, chửi bậy, không được gần gũi phụ nữ.

Người Dao có dân số đứng thứ 3 ở Hà Giang. Người Dao không chỉ nổi tiếng bởi đức tính cần cù, chịu khó làm ăn nên đời sống khá ổn định mà họ còn giữ gìn hầu như nguyên vẹn bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Một trong những giá trị văn hóa độc đáo đó chính là lễ cấp sắc – một nghi lễ không thể thiếu trong đời người đàn ông Dao.
Lễ cấp sắc (còn gọi là lễ phong sắc, tự cải) là một trong những nghi lễ độc đáo của dân tộc Dao đỏ ở thôn Nậm Đăm, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang. Các điều giáo huấn được thực hiện bằng lời thề dưới sự chứng kiến của tổ tiên và các quan âm binh nên tính giáo dục càng có giá trị. Họ quan niệm rằng, người đã trải qua lễ cấp sắc mới có tâm, có đức, mới biết lẽ phải trái ở đời, hướng tới việc thiện, không làm điều ác và mới được công nhận là con cháu của Bàn Vương.

Lễ cấp sắc có mục đích là chuyển từ giai đoạn trẻ con lên người đàn ông trưởng thành. Người đàn ông cao tuổi mà chưa trải qua lễ cấp sắc thì cũng bị coi như chưa trưởng thành. Ngược lại, dù còn ít tuổi nhưng đã trải qua lễ cấp sắc thì người đó được phép tham dự bàn bạc những công việc của làng bản, dòng họ…

Trong các gia đình người Dao, các bé trai được chăm sóc rất chu đáo nhưng cũng rất nghiêm khắc; 12, 13 tuổi đã phải nhận thức được vai trò trách nhiệm của đàn ông đối với gia đình, dòng họ, làng bản. Lễ cấp sắc được tổ chức là một lần nữa khẳng định sự trưởng thành của người con trai đó. Chính vì vậy, để được làm lễ cấp sắc thì bản thân người con trai đó phải nỗ lực cố gắng nhiều. Lúc đó, gia đình và họ tộc mới chuẩn bị mọi thứ để tổ chức lễ cấp sắc.

Lễ cấp sắc của người Dao

Lễ Cấp sắc thường được tổ chức vào tháng 11, tháng 12 hoặc tháng Giêng hàng năm, vì đây là thời gian nhàn rỗi. Ngày thụ lễ được lựa chọn rất kĩ, người Dao Đỏ, Dao Tiền thường làm lễ cấp sắc từ độ tuổi 12-30, trong khi đó ở người Dao Áo Dài là 11-19 tuổi. Người Dao Đỏ có thể tổ chức Cấp sắc cho một đợt tối đa 13 người (nếu ít hơn phải theo số lẻ) ở nhà trưởng họ; người Dao Áo Dài mỗi lần chỉ cấp sắc cho một người và tại nhà người đó.

Mỗi lễ cấp sắc phải có 6 thầy cúng đảm nhiệm các nhiệm vụ và các nghi lễ lớn nhỏ khác nhau. Lễ cấp sắc có rất nhiều nghi lễ như: Lễ đội đèn, lễ giữ cây đèn, lễ hạ đèn, lễ giao binh, lễ trình Ngọc Hoàng, lễ cấp bản sắc, lễ tạ ơn ma tổ tiên và thần thánh… Các thầy cúng trước khi hành lễ đều phải cúng ma ở bàn thờ tổ tiên nhà mình để xin được phù hộ và đi theo giúp đỡ. Tại nơi hành lễ, họ treo tranh Ngọc Hoàng và các vị thần thánh của người Dao, lập bàn thờ tổ tiên người thụ lễ và bàn thờ các thần thánh. Khi hành lễ, các thầy cúng phải thực hiện rất nhiều bài cúng, múa, điệu bộ phép thuật theo sách cấp sắc; người thụ lễ, có khi cả vợ anh ta cũng phải thực hiện nhiều động tác nghi lễ theo sự chỉ dẫn của các thầy.

Khác với nhóm Dao Đỏ và Dao Tiền, người Dao Áo Dài có một nghi thức gọi là hóa kiếp khá đặc biệt. Theo đó, người thụ lễ ngồi xổm, bất động, các ngón tay bắt vào ngón chân khoảng một giờ đồng hồ, rồi được thầy đẩy nhẹ cho rơi xuống một cái võng có 3-4 người đỡ. Làm xong lễ hóa kiếp là lễ giáo huấn, lễ thề và lễ đặt tên cấp sắc. Ở tất cả các nhóm Dao, sau khi thực hiện đầy đủ các nghi thức phức tạp và đã cấp sắc cho người thụ lễ xong, các thầy cúng đều phải cúng tạ ơn tổ tiên, thần thánh đã đến dự thì nghi lễ mới kết thúc.

Lễ cấp sắc của người Dao

Điểm đặc biệt là các lời cúng trong lễ cấp sắc có giá trị lịch sử rất lớn. Mỗi lần tổ chức lễ cấp sắc là một dịp cộng đồng nghe lại nguồn gốc xuất xứ của dân tộc mình từ xưa đến nay, tạo nên lòng tự hào dân tộc, ghi nhớ công lao to lớn của tổ tiên, từ đó có cách sống sao cho xứng đáng với truyền thống tốt đẹp đó.

Một trong những điểm tạo nên giá trị của nghi lễ này chính là ý nghĩa của các lời răn dạy. Đó là sự hướng tới việc thiện, tuyệt đối không được làm điều ác. Đó là sự tôn trọng người thầy, biết ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ, chung thủy với bạn bè, trọng nghĩa, có lòng vị tha, không phản bội, lừa gạt, không dâm đãng… Những lời giáo huấn này được thực hiện bằng lời thề dưới sự chứng giám của thần linh, trời đất, tổ tiên và trước cả cộng đồng dòng tộc nên có tác dụng rất lớn. Những điều giáo huấn này còn được ghi lại bằng văn bản, một bản được đốt tại lễ cấp sắc, một bản giao cho người được cấp sắc để lưu giữ suốt đời.

Trong lễ cấp sắc còn có rất nhiều điệu múa. Và rất nhiều điệu múa Dao hiện nay được biểu diễn trên sân khấu chính là được cải biên, trích đoạn từ những bài múa trong nghi lễ cấp sắc. Qua lễ cấp sắc của người Dao còn biểu hiện một trình độ thẩm mỹ cao với rất nhiều tranh vẽ, hình cắt giấy trang trí…

Lễ cấp sắc của người Dao

Lễ cấp sắc của người Dao là cả một kho tàng văn hóa cổ truyền mang tính giáo dục rất lớn và giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc. Đây chính là nét văn hóa điển hình trong đời sống tinh thần của đồng bào Dao nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm bản sắc dân tộc trên vùng miền núi cao phía bắc của tổ quốc.

Đàm Minh Phượng
Lễ cấp sắc của người Dao

Tục cấp sắc được xem là buổi lễ quan trọng trong cuộc đời của người Dao, đặc biệt là những người đàn ông Dao. Trong những ngày diễn ra cấp sắc, người thụ lễ không được nói tục, chửi bậy, không được gần gũi phụ nữ.

Người Dao có dân số đứng thứ 3 ở Hà Giang. Người Dao không chỉ nổi tiếng bởi đức tính cần cù, chịu khó làm ăn nên đời sống khá ổn định mà họ còn giữ gìn hầu như nguyên vẹn bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Một trong những giá trị văn hóa độc đáo đó chính là lễ cấp sắc – một nghi lễ không thể thiếu trong đời người đàn ông Dao.
Lễ cấp sắc (còn gọi là lễ phong sắc, tự cải) là một trong những nghi lễ độc đáo của dân tộc Dao đỏ ở thôn Nậm Đăm, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang. Các điều giáo huấn được thực hiện bằng lời thề dưới sự chứng kiến của tổ tiên và các quan âm binh nên tính giáo dục càng có giá trị. Họ quan niệm rằng, người đã trải qua lễ cấp sắc mới có tâm, có đức, mới biết lẽ phải trái ở đời, hướng tới việc thiện, không làm điều ác và mới được công nhận là con cháu của Bàn Vương.

Lễ cấp sắc có mục đích là chuyển từ giai đoạn trẻ con lên người đàn ông trưởng thành. Người đàn ông cao tuổi mà chưa trải qua lễ cấp sắc thì cũng bị coi như chưa trưởng thành. Ngược lại, dù còn ít tuổi nhưng đã trải qua lễ cấp sắc thì người đó được phép tham dự bàn bạc những công việc của làng bản, dòng họ…

Trong các gia đình người Dao, các bé trai được chăm sóc rất chu đáo nhưng cũng rất nghiêm khắc; 12, 13 tuổi đã phải nhận thức được vai trò trách nhiệm của đàn ông đối với gia đình, dòng họ, làng bản. Lễ cấp sắc được tổ chức là một lần nữa khẳng định sự trưởng thành của người con trai đó. Chính vì vậy, để được làm lễ cấp sắc thì bản thân người con trai đó phải nỗ lực cố gắng nhiều. Lúc đó, gia đình và họ tộc mới chuẩn bị mọi thứ để tổ chức lễ cấp sắc.

Lễ cấp sắc của người Dao

Lễ Cấp sắc thường được tổ chức vào tháng 11, tháng 12 hoặc tháng Giêng hàng năm, vì đây là thời gian nhàn rỗi. Ngày thụ lễ được lựa chọn rất kĩ, người Dao Đỏ, Dao Tiền thường làm lễ cấp sắc từ độ tuổi 12-30, trong khi đó ở người Dao Áo Dài là 11-19 tuổi. Người Dao Đỏ có thể tổ chức Cấp sắc cho một đợt tối đa 13 người (nếu ít hơn phải theo số lẻ) ở nhà trưởng họ; người Dao Áo Dài mỗi lần chỉ cấp sắc cho một người và tại nhà người đó.

Mỗi lễ cấp sắc phải có 6 thầy cúng đảm nhiệm các nhiệm vụ và các nghi lễ lớn nhỏ khác nhau. Lễ cấp sắc có rất nhiều nghi lễ như: Lễ đội đèn, lễ giữ cây đèn, lễ hạ đèn, lễ giao binh, lễ trình Ngọc Hoàng, lễ cấp bản sắc, lễ tạ ơn ma tổ tiên và thần thánh… Các thầy cúng trước khi hành lễ đều phải cúng ma ở bàn thờ tổ tiên nhà mình để xin được phù hộ và đi theo giúp đỡ. Tại nơi hành lễ, họ treo tranh Ngọc Hoàng và các vị thần thánh của người Dao, lập bàn thờ tổ tiên người thụ lễ và bàn thờ các thần thánh. Khi hành lễ, các thầy cúng phải thực hiện rất nhiều bài cúng, múa, điệu bộ phép thuật theo sách cấp sắc; người thụ lễ, có khi cả vợ anh ta cũng phải thực hiện nhiều động tác nghi lễ theo sự chỉ dẫn của các thầy.

Khác với nhóm Dao Đỏ và Dao Tiền, người Dao Áo Dài có một nghi thức gọi là hóa kiếp khá đặc biệt. Theo đó, người thụ lễ ngồi xổm, bất động, các ngón tay bắt vào ngón chân khoảng một giờ đồng hồ, rồi được thầy đẩy nhẹ cho rơi xuống một cái võng có 3-4 người đỡ. Làm xong lễ hóa kiếp là lễ giáo huấn, lễ thề và lễ đặt tên cấp sắc. Ở tất cả các nhóm Dao, sau khi thực hiện đầy đủ các nghi thức phức tạp và đã cấp sắc cho người thụ lễ xong, các thầy cúng đều phải cúng tạ ơn tổ tiên, thần thánh đã đến dự thì nghi lễ mới kết thúc.

Lễ cấp sắc của người Dao

Điểm đặc biệt là các lời cúng trong lễ cấp sắc có giá trị lịch sử rất lớn. Mỗi lần tổ chức lễ cấp sắc là một dịp cộng đồng nghe lại nguồn gốc xuất xứ của dân tộc mình từ xưa đến nay, tạo nên lòng tự hào dân tộc, ghi nhớ công lao to lớn của tổ tiên, từ đó có cách sống sao cho xứng đáng với truyền thống tốt đẹp đó.

Một trong những điểm tạo nên giá trị của nghi lễ này chính là ý nghĩa của các lời răn dạy. Đó là sự hướng tới việc thiện, tuyệt đối không được làm điều ác. Đó là sự tôn trọng người thầy, biết ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ, chung thủy với bạn bè, trọng nghĩa, có lòng vị tha, không phản bội, lừa gạt, không dâm đãng… Những lời giáo huấn này được thực hiện bằng lời thề dưới sự chứng giám của thần linh, trời đất, tổ tiên và trước cả cộng đồng dòng tộc nên có tác dụng rất lớn. Những điều giáo huấn này còn được ghi lại bằng văn bản, một bản được đốt tại lễ cấp sắc, một bản giao cho người được cấp sắc để lưu giữ suốt đời.

Trong lễ cấp sắc còn có rất nhiều điệu múa. Và rất nhiều điệu múa Dao hiện nay được biểu diễn trên sân khấu chính là được cải biên, trích đoạn từ những bài múa trong nghi lễ cấp sắc. Qua lễ cấp sắc của người Dao còn biểu hiện một trình độ thẩm mỹ cao với rất nhiều tranh vẽ, hình cắt giấy trang trí…

Lễ cấp sắc của người Dao

Lễ cấp sắc của người Dao là cả một kho tàng văn hóa cổ truyền mang tính giáo dục rất lớn và giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc. Đây chính là nét văn hóa điển hình trong đời sống tinh thần của đồng bào Dao nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm bản sắc dân tộc trên vùng miền núi cao phía bắc của tổ quốc.

Đàm Minh Phượng