
Tục  lệ cưới xin của người Tày ở Bắc Kạn có 
nhiều điểm giống người Kinh: cũng có lễ dạm ngõ, ăn hỏi, rước dâu… Nhưng 
có những điểm khác biệt, thể hiện bản sắc văn hóa riêng của dân tộc 
mình.
Đám cưới thường được tổ chức vào lúc chiều tối (tầm 4 -5 
giờ trở đi). Cưới vào giờ này không ảnh hưởng đến công việc trong 
ngày của mọi người, người ở xa mấy núi cũng đến kịp. Hơn nữa, mọi người sẽ có 
thời gian ở chơi lâu hơn.
Tiệc cưới được chia làm hai tiệc: Tiệc thứ 
nhất dành cho người lớn tuổi, bậc cha chú, anh em họ hàng; tiệc thứ hai dành cho 
nam nữ thanh niên, bạn bè gần xa của cô dâu chú rể. Tiệc này bắt đầu vào khoảng 
7-8 giờ tối. Ăn uống xong, mọi người vẫn ở lại. Người lớn ngồi uống nước, hàn 
huyên với gia chủ. Thanh niên, đám thì tổ chức “lày cỏ” (một trò chơi như kiểu 
oẳn tù tì, người thua sẽ bị uống rượu phạt), đám thì bên trai bên gái hát lượn 
với nhau. Cuộc vui ồn ã, kéo dài thâu đêm, mờ sáng mới 
tan.
Theo phong tục, mọi chi phí tổ chức đám 
cưới của nhà gái đều do nhà trai lo liệu hết: tiền mặt, lợn, gà, gạo, rượu… Điều 
đó có ý nghĩa là nhà trai tỏ lòng biết ơn, mong đền đáp phần nào công lao dưỡng 
dục của bố mẹ cô gái. Nhà gái sẽ trích ra một số tiền để sắm sửa tư trang cho 
con gái làm của hồi môn: quần áo mới, vòng bạc, xà tích bạc, chăn màn thổ cẩm, 
chiếu hoa… và những đồ gia dụng khác. Còn rượu, thịt, gạo nếp, gạo tẻ sẽ dùng 
làm cỗ để mời họ hàng, làng xóm. Tất nhiên, hai bên gia đình có thể điều đình 
với nhau. Tùy theo gia cảnh nhà gái có thể “đòi” ít hay “đòi” nhiều. Có trường 
hợp, thấy nhà trai điều kiện kinh tế không mấy dư dả, nhà gái chỉ “đòi” một ít 
gọi là, cốt để tránh tiếng là con mình “theo không” người 
ta.
Người Tày ở Bắc Kạn còn có một phong tục 
đẹp khác. Đó là tục “khẩu lẩu” (gạo rượu). Khi gia đình nào có đám cưới (cũng 
như những việc hiếu hỉ khác như: vào nhà mới, thôi nôi, mừng thọ, ma chay…), 
ngoài số tiền phong bao như thường lệ, nhiều người còn đem gạo và rượu đến. Mươi 
ống gạo, chục lít rượu, nhiều ít tùy theo. Số gạo rượu đó được gia chủ ghi chép 
vào sổ cẩn thận. Để khi nào nhà khác có việc, mình lại đi “khẩu lẩu” lại người 
ta. Đây là một hình thức giúp đỡ lẫn nhau bằng hiện vật, đỡ phần nào chi phí cho 
gia chủ khi nhà có công việc. Đó là việc làm thật có ý nghĩa. Nó thể hiện tính 
cộng đồng rất cao của người dân nơi 
đây.
Người Tày có câu “slắng lẩu cẩu vằn”, có 
nghĩa là mời khách tới dự đám cưới  phải mời trước chín ngày, không sớm hơn mà 
cũng không muộn hơn. Điều này có lẽ xuất phát từ việc xưa kia do đi lại khó 
khăn, đường sá cách trở, phải mời trước như thế người được mời mới có thời gian 
chuẩn bị, sắp xếp công việc đến mừng. Anh em, bạn bè ở xa có thể đến trước một 
ngày. Dự đám cưới xong còn ở chơi thêm một hai ngày nữa mới chia tay ra về. 
Trong thời gian đó, gia chủ tiếp đãi rất thịnh tình, chu đáo, không để điều gì 
khiến khách phiền lòng. Điều đó thể hiện tấm lòng hiếu khách của đồng bào 
Tày.
Có một điều đặc biệt là lễ cưới cử hành 
xong, cô gái không ở lại nhà chồng mà quay về nhà bố mẹ đẻ ngay đêm đó. Dù đêm 
đã khuya, chú rể và đại diện nhà trai vẫn phải đưa cô dâu và phái đoàn nhà gái 
trở về. Nếu vì lý do nào đó như đường sá quá xa xôi, không thể về ngay mà phải ở 
lại thì đêm đó cô dâu và các cô gái phù dâu sẽ ngủ chung một phòng rồi sáng hôm 
sau về sớm. Ngày thứ ba tính từ ngày cưới , chàng trai mới đi đón vợ về. Đêm đó 
mới chính thức là đêm tân hôn của hai người. Tục gọi đó là lễ “slam nâư” (ba 
ngày) - hiểu nôm na là lễ lại mặt. Theo cách giải thích của những người cao tuổi 
thì sở dĩ có tục này là bởi trước và trong ngày cưới  chú rể sẽ rất mệt mỏi vì 
phải lo nhiều việc, nhất là phải uống rất nhiều rượu mừng của mọi người, nếu 
động phòng ngay thì sẽ không có 
lợi.
Nhưng cô dâu cũng chỉ ở nhà chồng chừng dăm 
bảy ngày, sau đó lại quay về sống với bố mẹ đẻ. Bởi theo phong tục của người 
Tày, khi nào con dâu có con mới được về ở hẳn nhà chồng. Chính vì thế mới có 
chuyện, cứ dăm bữa nửa tháng, mẹ chồng lại cho gọi con dâu về với những lý do: 
giúp nhổ mạ, cấy lúa hay xay lúa, giã gạo hộ mẹ… Tóm lại là kiếm đủ cớ để gọi 
con dâu về, mục đích là để đôi trẻ có dịp gần gũi nhau, để bà mau có cháu bế. 
Khi cô gái có mang, gần đến ngày khai hoa mãn nguyệt, nhà chồng mới đón về để 
sinh nở. Có con rồi cô gái mới chính thức về nhà chồng, được giao chìa khóa tay 
hòm, gánh vác mọi công việc nhà 
chồng.
Cùng với thời gian và sự phát triển của xã 
hội, nhiều tập tục trong việc cưới xin của người Tày ở Bắc Kạn cũng có sự thay 
đổi, không còn nguyên như xưa nữa. Ví như bây giờ người con gái không còn phải 
đợi đến khi có con mới về nhà chồng, hoặc nhà gái cũng không còn đòi hỏi nhà 
trai quá nặng về vật chất… Việc cưới xin của đồng bào Tày bây giờ ngày càng giản 
tiện, văn minh hơn xong vẫn giữ được bản sắc riêng của dân tộc 
mình.
 Vũ Thúy

Tục  lệ cưới xin của người Tày ở Bắc Kạn có 
nhiều điểm giống người Kinh: cũng có lễ dạm ngõ, ăn hỏi, rước dâu… Nhưng 
có những điểm khác biệt, thể hiện bản sắc văn hóa riêng của dân tộc 
mình.
Đám cưới thường được tổ chức vào lúc chiều tối (tầm 4 -5 
giờ trở đi). Cưới vào giờ này không ảnh hưởng đến công việc trong 
ngày của mọi người, người ở xa mấy núi cũng đến kịp. Hơn nữa, mọi người sẽ có 
thời gian ở chơi lâu hơn.
Tiệc cưới được chia làm hai tiệc: Tiệc thứ 
nhất dành cho người lớn tuổi, bậc cha chú, anh em họ hàng; tiệc thứ hai dành cho 
nam nữ thanh niên, bạn bè gần xa của cô dâu chú rể. Tiệc này bắt đầu vào khoảng 
7-8 giờ tối. Ăn uống xong, mọi người vẫn ở lại. Người lớn ngồi uống nước, hàn 
huyên với gia chủ. Thanh niên, đám thì tổ chức “lày cỏ” (một trò chơi như kiểu 
oẳn tù tì, người thua sẽ bị uống rượu phạt), đám thì bên trai bên gái hát lượn 
với nhau. Cuộc vui ồn ã, kéo dài thâu đêm, mờ sáng mới 
tan.
Theo phong tục, mọi chi phí tổ chức đám 
cưới của nhà gái đều do nhà trai lo liệu hết: tiền mặt, lợn, gà, gạo, rượu… Điều 
đó có ý nghĩa là nhà trai tỏ lòng biết ơn, mong đền đáp phần nào công lao dưỡng 
dục của bố mẹ cô gái. Nhà gái sẽ trích ra một số tiền để sắm sửa tư trang cho 
con gái làm của hồi môn: quần áo mới, vòng bạc, xà tích bạc, chăn màn thổ cẩm, 
chiếu hoa… và những đồ gia dụng khác. Còn rượu, thịt, gạo nếp, gạo tẻ sẽ dùng 
làm cỗ để mời họ hàng, làng xóm. Tất nhiên, hai bên gia đình có thể điều đình 
với nhau. Tùy theo gia cảnh nhà gái có thể “đòi” ít hay “đòi” nhiều. Có trường 
hợp, thấy nhà trai điều kiện kinh tế không mấy dư dả, nhà gái chỉ “đòi” một ít 
gọi là, cốt để tránh tiếng là con mình “theo không” người 
ta.
Người Tày ở Bắc Kạn còn có một phong tục 
đẹp khác. Đó là tục “khẩu lẩu” (gạo rượu). Khi gia đình nào có đám cưới (cũng 
như những việc hiếu hỉ khác như: vào nhà mới, thôi nôi, mừng thọ, ma chay…), 
ngoài số tiền phong bao như thường lệ, nhiều người còn đem gạo và rượu đến. Mươi 
ống gạo, chục lít rượu, nhiều ít tùy theo. Số gạo rượu đó được gia chủ ghi chép 
vào sổ cẩn thận. Để khi nào nhà khác có việc, mình lại đi “khẩu lẩu” lại người 
ta. Đây là một hình thức giúp đỡ lẫn nhau bằng hiện vật, đỡ phần nào chi phí cho 
gia chủ khi nhà có công việc. Đó là việc làm thật có ý nghĩa. Nó thể hiện tính 
cộng đồng rất cao của người dân nơi 
đây.
Người Tày có câu “slắng lẩu cẩu vằn”, có 
nghĩa là mời khách tới dự đám cưới  phải mời trước chín ngày, không sớm hơn mà 
cũng không muộn hơn. Điều này có lẽ xuất phát từ việc xưa kia do đi lại khó 
khăn, đường sá cách trở, phải mời trước như thế người được mời mới có thời gian 
chuẩn bị, sắp xếp công việc đến mừng. Anh em, bạn bè ở xa có thể đến trước một 
ngày. Dự đám cưới xong còn ở chơi thêm một hai ngày nữa mới chia tay ra về. 
Trong thời gian đó, gia chủ tiếp đãi rất thịnh tình, chu đáo, không để điều gì 
khiến khách phiền lòng. Điều đó thể hiện tấm lòng hiếu khách của đồng bào 
Tày.
Có một điều đặc biệt là lễ cưới cử hành 
xong, cô gái không ở lại nhà chồng mà quay về nhà bố mẹ đẻ ngay đêm đó. Dù đêm 
đã khuya, chú rể và đại diện nhà trai vẫn phải đưa cô dâu và phái đoàn nhà gái 
trở về. Nếu vì lý do nào đó như đường sá quá xa xôi, không thể về ngay mà phải ở 
lại thì đêm đó cô dâu và các cô gái phù dâu sẽ ngủ chung một phòng rồi sáng hôm 
sau về sớm. Ngày thứ ba tính từ ngày cưới , chàng trai mới đi đón vợ về. Đêm đó 
mới chính thức là đêm tân hôn của hai người. Tục gọi đó là lễ “slam nâư” (ba 
ngày) - hiểu nôm na là lễ lại mặt. Theo cách giải thích của những người cao tuổi 
thì sở dĩ có tục này là bởi trước và trong ngày cưới  chú rể sẽ rất mệt mỏi vì 
phải lo nhiều việc, nhất là phải uống rất nhiều rượu mừng của mọi người, nếu 
động phòng ngay thì sẽ không có 
lợi.
Nhưng cô dâu cũng chỉ ở nhà chồng chừng dăm 
bảy ngày, sau đó lại quay về sống với bố mẹ đẻ. Bởi theo phong tục của người 
Tày, khi nào con dâu có con mới được về ở hẳn nhà chồng. Chính vì thế mới có 
chuyện, cứ dăm bữa nửa tháng, mẹ chồng lại cho gọi con dâu về với những lý do: 
giúp nhổ mạ, cấy lúa hay xay lúa, giã gạo hộ mẹ… Tóm lại là kiếm đủ cớ để gọi 
con dâu về, mục đích là để đôi trẻ có dịp gần gũi nhau, để bà mau có cháu bế. 
Khi cô gái có mang, gần đến ngày khai hoa mãn nguyệt, nhà chồng mới đón về để 
sinh nở. Có con rồi cô gái mới chính thức về nhà chồng, được giao chìa khóa tay 
hòm, gánh vác mọi công việc nhà 
chồng.
Cùng với thời gian và sự phát triển của xã 
hội, nhiều tập tục trong việc cưới xin của người Tày ở Bắc Kạn cũng có sự thay 
đổi, không còn nguyên như xưa nữa. Ví như bây giờ người con gái không còn phải 
đợi đến khi có con mới về nhà chồng, hoặc nhà gái cũng không còn đòi hỏi nhà 
trai quá nặng về vật chất… Việc cưới xin của đồng bào Tày bây giờ ngày càng giản 
tiện, văn minh hơn xong vẫn giữ được bản sắc riêng của dân tộc 
mình.
 Vũ Thúy


















