This is default featured slide 1 title
Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.
This is default featured slide 2 title
Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.
This is default featured slide 3 title
Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.
This is default featured slide 4 title
Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.
This is default featured slide 5 title
Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.
Trang phục truyền thống của người Tày (Hữu Duyệt)
Người Tày cư trú ở vùng miền núi phía Bắc.
Từ sau năm 1975, người Tày di cư vào các tỉnh Tây Nguyên khá nhiều, ở Đắk Nông,
người Tày định cư nhiều ở các huyện Chư Jút, Krông Nô, Đắk Mil…
Cũng như các dân tộc thiểu số khác, người
Tày cũng có trang phục riêng, dù không sặc sỡ như của người Mông, Thái, Mường…
nhưng cũng có sự độc đáo riêng biệt.
Trang phục của phụ nữ Tày gồm bộ áo và váy.
Bộ áo gồm bên trong là yếm và bên ngoài là áo. Yếm là mảnh vải màu hình thang
cân để che ngực; xung quanh vòng tròn cổ yếm có đính các hạt Mạt Đạo (là các cúc
đúc bằng kim loại tròn hình cái mũ được mạ trắng lóng lánh, làm nổi bật cái cổ
cao duyên dáng nơi đầu ngực chị em.
Bên ngoài mặc áo dài tay hay ngắn tay, gấu
áo đều dài đến thắt lưng gọi là Cóm, cổ áo may hay khâu rất khéo theo vòng tròn
cổ, áo xẻ giữa ngực xuống đến gấu áo để dễ thao tác khi mặc. Từ cổ áo xuống đến
gấu có đính 7 đến 9 hàng cúc nhôm hay bạc hình con bướm, mỗi đôi có móc cài vào
nhau làm cho khuôn ngực chặt
chẽ.
Hiện nay chị em thường thêu hoặc mua sẵn ở
chợ. Ngoài cũng là một áo dài tới qua đầu gối có hai dây thắt buộc ở vị trí giữa
bụng. Nếu đi chơi, một số người thường đeo thêm túi vải sặc sỡ, nhưng đi rừng,
đi nương thì thường thắt dây buộc vỏ dao vào
người.
Chiếc váy có thân từ mắt cá chân lên đến
bụng dưới thường là màu đen hoặc tràm xanh. Cạp váy là những miếng vải xanh, đỏ,
hồng, có chiều rộng 3cm, dài 15cm khâu nối với nhau liên tục cho bằng chu vi của
đường tròn váy. Phần trên là khổ vải rộng khoảng 22cm, được thêu tay. Hoa văn
thêu là hình các con rồng, phượng và cỏ cây hoa lá bằng chí ngũ sắc rất công phu
mỹ thuật; hoặc khâu vải
hoa.
Khi mặc, váy rộng được gấp chặt vào thân
người và giắt đầu váy vào phía nách bên trái hay nách phải, ở phía trên khuôn
ngực. Ngoài cùng được thắt một khăn xanh màu thiên lý hay màu đỏ hồng; gọi là
cái tềnh, được thả hai đầu cao thấp bên hông. Nơi dái tai đeo khuyên vòng hay
các loại rtang trí khác bằng
bạc.
Trang phục nam giới có áo, quần nhưng đơn
giản hơn là áo thường may ngắn tay hoặc dài tay chật ống, xẻ tà ngang hông,
trước ngực trái có một túi, dưới bụng hai túi, cổ tròn có nẹp dựng đứng
nhưng không có ve cổ; áo được cài khuy vải. Chất liệu vải để may quần áo nam
thường làm bằng vải bông tự dệt, đem nhuộm tràm, xanh
đen.
Quần may kiểu ống đứng, và rộng để tiện khi vén lên qua
suối, ở bụng buộc cạp túm lại với nhau, bên ngoài thắt thêm một dây rừng dẻo
hoặc dây bông bện cho chắc chắn khi lao động. Người già thường
chít khăn quanh đầu rộng khoảng 20cm dài độ 1m đem nhuộm tràm, chít khăn giắt
mối rồi thả độ 20 phân xuống bên tai nào thuận tay. Đi rừng thường thắt dao cầm
nỏ, đi chặt cây thì mang rìu; đi đào củ mài thì mang thuổng; đi chơi thì khoác
túi vải đựng một số đồ vặt. Thanh niên đi chơi lễ hội, có thể thắt thêm khăn màu
ở bụng thay dải rút cho an
toàn.
Hữu Duyệt
Người Tày cư trú ở vùng miền núi phía Bắc.
Từ sau năm 1975, người Tày di cư vào các tỉnh Tây Nguyên khá nhiều, ở Đắk Nông,
người Tày định cư nhiều ở các huyện Chư Jút, Krông Nô, Đắk Mil…
Cũng như các dân tộc thiểu số khác, người
Tày cũng có trang phục riêng, dù không sặc sỡ như của người Mông, Thái, Mường…
nhưng cũng có sự độc đáo riêng biệt.
Trang phục của phụ nữ Tày gồm bộ áo và váy.
Bộ áo gồm bên trong là yếm và bên ngoài là áo. Yếm là mảnh vải màu hình thang
cân để che ngực; xung quanh vòng tròn cổ yếm có đính các hạt Mạt Đạo (là các cúc
đúc bằng kim loại tròn hình cái mũ được mạ trắng lóng lánh, làm nổi bật cái cổ
cao duyên dáng nơi đầu ngực chị
em.
Bên ngoài mặc áo dài tay hay ngắn tay, gấu
áo đều dài đến thắt lưng gọi là Cóm, cổ áo may hay khâu rất khéo theo vòng tròn
cổ, áo xẻ giữa ngực xuống đến gấu áo để dễ thao tác khi mặc. Từ cổ áo xuống đến
gấu có đính 7 đến 9 hàng cúc nhôm hay bạc hình con bướm, mỗi đôi có móc cài vào
nhau làm cho khuôn ngực chặt
chẽ.
Hiện nay chị em thường thêu hoặc mua sẵn ở
chợ. Ngoài cũng là một áo dài tới qua đầu gối có hai dây thắt buộc ở vị trí giữa
bụng. Nếu đi chơi, một số người thường đeo thêm túi vải sặc sỡ, nhưng đi rừng,
đi nương thì thường thắt dây buộc vỏ dao vào
người.
Chiếc váy có thân từ mắt cá chân lên đến
bụng dưới thường là màu đen hoặc tràm xanh. Cạp váy là những miếng vải xanh, đỏ,
hồng, có chiều rộng 3cm, dài 15cm khâu nối với nhau liên tục cho bằng chu vi của
đường tròn váy. Phần trên là khổ vải rộng khoảng 22cm, được thêu tay. Hoa văn
thêu là hình các con rồng, phượng và cỏ cây hoa lá bằng chí ngũ sắc rất công phu
mỹ thuật; hoặc khâu vải
hoa.
Khi mặc, váy rộng được gấp chặt vào thân
người và giắt đầu váy vào phía nách bên trái hay nách phải, ở phía trên khuôn
ngực. Ngoài cùng được thắt một khăn xanh màu thiên lý hay màu đỏ hồng; gọi là
cái tềnh, được thả hai đầu cao thấp bên hông. Nơi dái tai đeo khuyên vòng hay
các loại rtang trí khác bằng
bạc.
Trang phục nam giới có áo, quần nhưng đơn
giản hơn là áo thường may ngắn tay hoặc dài tay chật ống, xẻ tà ngang hông,
trước ngực trái có một túi, dưới bụng hai túi, cổ tròn có nẹp dựng đứng
nhưng không có ve cổ; áo được cài khuy vải. Chất liệu vải để may quần áo nam
thường làm bằng vải bông tự dệt, đem nhuộm tràm, xanh
đen.
Quần may kiểu ống đứng, và rộng để tiện khi vén lên qua
suối, ở bụng buộc cạp túm lại với nhau, bên ngoài thắt thêm một dây rừng dẻo
hoặc dây bông bện cho chắc chắn khi lao động. Người già thường
chít khăn quanh đầu rộng khoảng 20cm dài độ 1m đem nhuộm tràm, chít khăn giắt
mối rồi thả độ 20 phân xuống bên tai nào thuận tay. Đi rừng thường thắt dao cầm
nỏ, đi chặt cây thì mang rìu; đi đào củ mài thì mang thuổng; đi chơi thì khoác
túi vải đựng một số đồ vặt. Thanh niên đi chơi lễ hội, có thể thắt thêm khăn màu
ở bụng thay dải rút cho an
toàn.
Hữu Duyệt
Từ trang phục dân tộc Tày nghĩ về bản sắc văn hóa Việt (Hồng Hải)
Trang phục dân tộc thiểu số ở Việt Nam thường nhiều màu
rực rỡ vui vẻ. Phải xuất phát từ cái cơ bản, cái gốc mới tạo nên
cái mới tuyệt đẹp hấp dẫn. Có rễ sâu cây cổ thụ mới sống lâu và vươn cao kiêu
hãnh giữa bầu trời. Đó là khi ta ngắm nhìn các nhà sàn đẹp và những chiếc váy
xòe màu sắc trên bản.
Đường dài, vòng vòng qua
núi,
gần
nửa ngày đường tôi chẳng thấy nhà sàn, chỉ thấy toàn nhà bê tông, nhà lớp ngói,
lợp tôn lổn nhổn hai bên đường quốc lộ với lèo tèo với mấy cái quán ăn sơn lem
nhem, bán mấy thứ linh tinh trước cửa. Đến nơi chúng tôi được đón tiếp ở khu nhà
tầng như khu tập thể dưới Hà Nội thời bao cấp. Chúng tôi đến một nơi như doanh
trại cũ của Pháp trước kia. Thị trấn chẳng còn bóng nhà sàn, cũng chẳng thấy
bóng áo chàm. Các cháu người dân tộc và mọi người đều mặc quần áo như người
Kinh. Kinh hóa và xi măng đến tận đỉnh núi. Ngày hôm sau đúng phiên chợ, tôi mới
thấy một phụ nữ đứng tuổi mặc bộ váy người Dao, đeo vòng rất ấn tượng, và lác
đác vài người mặc trang phục dân tộc Tày. Chiều đi vào bản Hon, thăm nhà một
trưởng bản, tôi mới tận mắt thấy cái nhà sàn giữa núi rừng. Phụ nữ Tày đứng tuổi
ở đây còn giữ nếp sống cổ xưa không ra tiếp khách. Cụ trưởng bản Hon đón chúng
tôi. Trời đã chập choạng tối, thấp thoáng một người đàn bà mặc áo chàm đi lên
địu giỏ ngô khô mang cất lên góc nhà sàn để chuẩn bị làm rượu. Bây giờ tôi mới
hiểu, trang phục Tày hết sức đơn giản, chỉ có đơn thuần một màu chàm. Trang phục
giống nhau cho cả ngày lễ, ngày tang, ngày cưới, lao động, chợ
xuân...
Để làm thơm trang phục, phụ nữ Tày ướp loại
lá hoắc hương rất thơm, cũng thường dùng làm thuốc để trong rương đựng trang
phục. Bình thường thì họ dệt vải đơn giản hoặc mua vải nơi khác đem về nhuộm
chàm. Một số trang phục trang trọng hơn, họ dệt những hoa văn thiên nhiên quen
thuộc như hoa, lá ẩn trên vải. Khi nhuộm nét đó đậm mầu vằn lên trông rất đẹp.
Họa tiết được ký họa là những hình để thích hợp với việc dệt trên khung dệt. Bố
cục giản đơn họa tiết theo phương pháp ô quả trám có các đường viền xung quanh
tạo thành các đường diềm gãy khúc. Trong các ô quả trám là họa tiết cách điệu
hóa hình họa, hình ngọn rau bầu, bí là loại cây có liên quan nhiều đến nền văn
hóa cổ, tín ngưỡng cổ của nhiều cư dân nông nghiệp ở phía Bắc nước ta, trong đó
có người Tày. Trang phục của họ giản dị, nhưng đồ chăn màn, khăn che bàn thờ tổ
tiên lại có màu sắc, có thêm diềm ở phía trên tương ứng với cõi dương - Trời;
có hình các vị thần linh, bảo hộ cho sự sống bình an của con người và thêm đường
diềm ở phía dưới tương ứng với cõi âm - đất với hình con ngựa, con chim là
những hình tượng biểu trưng cho cuộc sống, cỏ cây, muông thú trên mặt đất như
quan niệm về vũ trụ của dân
gian.
Người Tày sống giản dị nhưng trân trọng
người đã khuất. Họ tin thế giới linh hồn bên kia luôn phù trợ họ. Họ trân trọng
làm lễ tiễn đưa hồn người đã khuất về thế giới bên kia. Mong muốn hạnh phúc nơi
vĩnh hằng, có âm dương hòa hợp, nên phụ nữ Tày không chồng không con tức là chưa
có hạnh phúc trong cuộc đời dương thế, về bên kia sẽ cũng cô đơn. Theo quan niệm
người Tày, những phụ nữ này vẫn phải hóa kiếp trở về cõi nhân gian. Khi nào đầy
đủ cuộc sống lứa đôi mới được lên trên thế giới vĩnh hằng đó. Đó là một quan
niệm nhân bản, để con người không sống ích kỷ, lẻ loi và chỉ nghĩ đến bản thân,
nam nữ phải hòa đồng, chia sẻ trong cuộc sống thực tại và có trách nhiệm bảo tồn
nòi giống. Kẻ cô đơn bị coi như là còn ích kỷ. Thế giới bên kia hạnh phúc, lứa
đôi, không có người cô đơn, bất hạnh, không có ích kỷ. Nên ai muốn về được thế
giới bên kia hạnh phúc, thì ngay từ khi còn sống phải cố gắng cho mình có hạnh
phúc lứa đôi và có trách nhiệm bảo tồn nòi giống. Một quan niệm hết sức nhân
bản. Một cách giúp con người phải đi tìm và xây dựng hạnh phúc để âm dương hòa
hợp ngay từ dương
gian.
Theo phong tục Tày hầu như các màu sắc chỉ
được dùng trong hoa văn trang trí trên mặt chăn hay các tấm thổ cẩm chứ không
được dùng trên trang phục. Người Tày mặc giống nhau như mặc đồng phục mang một ý
nghĩa nhân bản. Các dân tộc khác cũng có trang phục riêng để nhận nhau. Thời
trước không có căn cước, giấy tờ, con người hòa đồng cùng thiên nhiên, đi giữa
rừng có thể lạc hoặc xảy ra tai nạn. Nếu ai đó tình cờ trông thấy chỉ cần qua
sắc phục là họ biết dân tộc nào, thì họ giúp đưa về bản đó, hoặc gọi ra đón về.
Đó là hình thức nhận ra nhau và phân biệt với dân tộc xung quanh. Dù đi đâu,
người cùng dân tộc cũng nhận ra đồng hương qua trang phục. Trang phục Tày giản
dị nhất so với các trang phục dân tộc khác, không màu mè, để không phân biệt
nghèo giầu. Khi đến ngày lễ hội vui của bản, người nghèo không mặc cảm vì quần
áo, hay phải lủi trốn không dám đến. Họ sẽ không bị coi thường vì trang phục.
Khi đi ra đồng, hay tiếp khách đều tiện, không cầu kỳ phải thay trang phục,
không phải bận tâm vì không có quần áo sang mới dám đón khách. Khách chủ như
nhau. Quần áo không đánh giá con người. Tình người mới quan trọng. Thường ngày
lễ họ chỉ cần chọn bộ mới nhất đem ra mặc. Không ai bị chê cười vì không mặc
đúng kiểu, đúng thời trang. Không ai phải lựa chọn bạn đời qua mác hiệu quần áo.
Sự đơn điệu trong trang phục còn thể hiện nếp sống kỷ luật của dân tộc Tày. Tất
cả như nhau, khi giúp đỡ nhau, có thể mượn trang phục của nhau mà không ai biết
nghèo phải mượn… Người Tày vì lý do gì phải đi xa bản lập nghiệp khi trở về quê
hương không ngại bị đánh giá sự thành công nếu vẫn mặc quần áo sắc tộc đến chào
bà con.
Có người cho rằng mặc thế trông nghèo nàn.
Mỗi sắc tộc có quan niệm sống khác biệt. Chính sự đơn giản có thể là nguyên nhân
dân tộc Tày phát triển và giữ vững được cộng đồng của mình. Dân tộc Tày chiếm
20% tổng số dân tộc thiểu số (gồm 53 dân tộc trên 500 người, không tính người
Kinh, vậy người Tày có khoảng 1,6 triệu người, sống rải từng khu ở vùng núi miền
Bắc: Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Quảng Ninh,
Lào Cai, Hà Giang. Dân tộc Tày chiếm 1,89% dân số người Việt Nam, đứng thứ 2 sau
người Kinh. Dân tộc Tày phát triển mạnh dù địa lý hiểm trở, núi cao. Dân tộc
Thái cũng như dân tộc Tày có nguồn gốc chung ngôn ngữ cổ, văn hóa có những nét
tương đồng, nhưng trang phục Thái rất đa sắc. Có thể người Tày gốc chung một
nguồn, nhưng do ban đầu nghèo hơn, với lòng tự trọng cao, tự lập nên đã tách ra
và tạo nên dân tộc mang sắc thái riêng. Có thể tổ tiên ban đầu đi lập nghiệp
nghèo, đã hiểu được cái tầm quan trọng của trang phục đối với sự đoàn kết anh em
họ hàng, nên các trưởng tộc trong bản đã quyết định đơn giản hóa trang phục,
trong mọi sinh hoạt. Hơn nữa kỹ thuật nhuộm màu ban đầu không thể nhiều màu như
ngày nay. Màu chàm là màu thông dụng. Việc đơn giản hóa trang phục giúp người
phụ nữ nhiều thời gian chăm lo giáo dục con cái và đồng áng hơn là suốt ngày
phải lo trang phục đẹp để khoe với mọi người. Trang phục đồng bộ đơn giản giúp
con người xích lại dễ dàng hơn, đồng cảm và tính đồng hương cao. Thời trước,
ngay vua chúa Việt Nam cũng nghèo, trang phục đơn giản. Sự giản đơn của trang
phục dân tộc Tày đã tạo nên sự liên kết giữa con người với nhau, mang ý nghĩa
nhân bản trong sự tương trợ giúp đỡ nhau khi xã hội kinh tế chưa phát triển, còn
du canh du cư trên miền núi phía Bắc lạnh lẽo và đầy thú
dữ.
Rất tiếc ngày nay các bản người Tày đã bị
Kinh hóa nhiều, các cô gái Tày mặc quần bò, váy đầm ngắn. Tất nhiên trong sự hội
nhập với cả nước, và để phù hợp với công nghiệp hiện đại, họ không biết rằng họ
sẽ đang rơi vào xu hướng mất bản sắc dân tộc. Khách du lịch đến Bắc Kạn hay đi
Tuyên Quang, Hà Giang… ngắm hồ Ba Bể hay miền núi hoang sơ chứ không phải để
ngắm những nam nữ dân tộc mặc quần bò, áo thun, nghe hát rap, và xem những ngôi
nhà xi măng, nhà lầu, xe hơi… Họ thèm khát sự thay đổi không khí trong lành chưa
bị ô nhiễm vì công nghiệp, với những con ngựa thồ trên núi, với những tiếng khèn
gọi bạn, với những trang phục dân tộc và những nhà sàn lạ mắt… Đó là một nguồn
thu nhập du lịch đáng kể, nếu như biết tổ chức và khai thác. Ngay bên bờ biển
sát vách núi ở vùng Saint Lunaire, một vùng biển phía Tây Bắc nước Pháp, nơi có
rất nhiều người đã từng có mặt ở Đông Dương, nỗi nhớ Đông Dương cho họ một ý
tưởng lợp nhà bằng gianh, và đặt tên Quán “Gianh” (Bar “chaumière”). Trong khi
đó chúng ta đang có sẵn lại phá đi để xây mấy cái nhà lợp tôn nóng bức, làm hỏng
cả quần thể của núi rừng phía Bắc. Tại sao chúng ta không nghiên cứu sử dụng kỹ
thuật hiện đại kết hợp dùng nóc nhà gianh, xây kiểu nhà sàn, vẫn bền và giữ bản
sắc dân tộc và thu hút được khách du
lịch?
Nếu qua Paris chúng ta có thể gặp nhiều
người phụ nữ Ấn Độ vẫn khoác cái khăn, áo xà rông của họ ngoài phố, phụ nữ châu
Phi mặc áo màu rực rỡ giữa thành phố văn minh đầy kiêu hãnh, ở Việt Nam chúng ta
ít khi gặp người thiểu số mặc trang phục dân tộc đi ngoài thành phố lớn. Phải
chăng họ bị mặc cảm vì sự xa lạ giữa quần thể người Kinh đông đúc? Người Việt
vốn hay tò mò nhìn họ, xem là dân trên núi xuống. Họ chỉ thay trang phục khi có
yêu cầu buổi dạ hội, và có xe đến đón đi biểu diễn, hoặc đến nơi mới thay, họ
không mặc trang phục của dân tộc mình ra đường. Ngày nay nhiều người mặc áo đũi,
vải thô mát, kiểu dân tộc ở thành phố đã tạo ra một cái nhìn quen thuộc. Nhưng
những tấm áo dài phụ nữ dân tộc hầu như không thấy xuất hiện ngoài đường. Tất
nhiên do điều kiện giao thông, trang phục phụ nữ dân tộc không thể chen lấn ô tô
buýt hay tàu xe, nhưng tại sao họ lại bắt chước trang phục phụ nữ phương Tây mặc
váy ngắn dài đi làm bằng xe máy, xe đạp được, nhưng lại ngại mặc quần áo dân tộc
của chính họ? Sự quen mắt và lạ đẹp sẽ trở thành mốt. Phụ nữ Kinh giờ đây sành
điệu cũng sử dụng vòng bạc khuyên bạc kiểu dân tộc, khoác túi thổ cẩm đa sắc,
trông vừa hiện đại vừa dân tộc tính khi đi chơi. Chúng ta biết mang trang phục
thổ cẩm ra giới thiệu với người phương Tây, nhưng lại ngại giới thiệu với dân cả
nước cùng đồng bào mình. Khi ra nước ngoài thì người Kinh lại mang túi, khăn,
áo, quần thổ cẩm làm quà cho bạn Tây. Người dân tộc đang nắm trong tay cái bảo
vật quý, quốc hồn quốc túy mà họ không biết trân
trọng.
Dân tộc Bách Việt vốn đa màu sắc, tại sao
chúng ta không khuyến khích mọi người mặc áo dân tộc ngoài phố để giúp phát
triển kinh tế các vùng dân tộc và giữ bản sắc phong phú các dân tộc mà lại đi
nhập cảng tràn lan những áo rẻ tiền bắt chước dân tộc thiểu số và nhuộm dởm bằng
hóa chất. Ngày hội vui, tại sao mọi người cứ phải thích hóa trang kiểu Tây không
hóa trang làm 54 dân tộc, vừa lôi kéo khách du lịch vừa đậm đà bản sắc dân tộc.
Cái gì ban đầu lạ, nhưng dùng nhiều thành quen mắt và trở thành quốc túy. Phở,
nem Việt Nam được thế giới biết đến như thịt bò Kobe, Pizza, Mcdonald, được biết
đến ở Việt Nam hiện nay… Vậy để phát huy và giữ bản sắc dân tộc, phải chính bản
thân người dân tộc phải nỗ lực và tự hào cái mình hiện có, đem nó từ cái không
phổ biến của dân tộc ít người trở thành cái phổ biến, như vòng bạc, áo khăn thổ
cẩm và các món ăn đặc sản của núi rừng. Trong khi trang phục của các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam tuyệt diệu ít được khai thác, thì quần áo trang phục Tây thì
được bày bán nhan nhản và toàn sản xuất từ Trung Quốc. Tiếng Việt phong phú,
nhưng các chương trình giải trí trên vô tuyến lại dùng tiếng Anh dân dã xen vào
như “yes” rồi vỗ tay vào nhau đánh chát, chưa kể người dẫn chương trình (gọi là
M.C) còn phát âm chưa chuẩn ngoại ngữ, đôi khi gây nực cười như “Việt Nam ai đần
(idol)”…
Người Việt hầu như ai cũng giữ tục lệ thờ
cúng tổ tiên. Hồn các cụ về tưởng bị lạc đường, nhầm nhà vì ngôn ngữ loạn tiếng
Anh nhiều. Người ta thi nhau dịch trinh thám, chuyện rùng rợn ở phương Tây,
trong khi các dân tộc ít người có nhiều chuyện truyền khẩu ly kỳ hấp dẫn không
kém. Dương Thuấn nhà thơ dân tộc Tày, đã chịu khó sưu tầm ghi chép lại thơ,
truyện truyền khẩu, cùng phong tục của dân tộc mình giới thiệu ra cho cả nước và
thế giới biết. Lê Anh Hoài người Kinh đi ngược xu hướng thức thời của thiên hạ
bằng việc đem thơ mình nhờ dịch ra tiếng thiểu số: Kh’mer, Lô Lô, K’Ho và chữ
Nôm để mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc gìn giữ bản sắc ngôn ngữ dân tộc và
hòa nhập dân tộc. Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn, nổi tiếng nhờ chất
ly kỳ rùng rợn của rừng tác giả tích lũy được sau nhiều năm chung sống với đồng
bào thiểu số… Đó là khát vọng của một số người cầm bút tâm huyết với văn hóa
ngôn ngữ dân tộc, yêu thiên nhiên muôn màu và hòa hợp các dân
tộc.
Sự tồn tại của bản sắc riêng của hồn dân tộc đánh dấu sự
hiện diện của nó. Hương hoa hồng khác hoa nhài, hoa cúc, hoa lan. Thiên nhiên
đẹp vì đa màu sắc, đa hương. Hoa nào cũng thơm, cũng đẹp, nét đặc
trưng văn hóa nào cũng mang tính nhân bản và hữu ích riêng nếu ta biết nâng niu,
trân trọng nó. Sự lai căng cũng tạo sắc thái riêng, nhưng sẽ giết dần bản sắc
dân tộc. Tất cả mọi xu hướng đều quý, nhưng bản sắc dân tộc cần giữ như bảy nốt
nhạc cơ bản làm nên bản nhạc giao hưởng hùng tráng hay thiết tha nhờ người soạn
giả xuất chúng và cũng chỉ mấy màu cơ bản hòa quyện thành những bức tranh đẹp
dưới tay người họa sỹ tài
ba.
Phải xuất phát từ cái cơ bản, cái gốc mới
tạo nên cái mới tuyệt đẹp hấp dẫn. Có rễ sâu cây cổ thụ mới sống lâu và vươn cao
kiêu hãnh giữa bầu
trời.
Hồng Hải
Trang phục dân tộc thiểu số ở Việt Nam thường nhiều màu
rực rỡ vui vẻ. Phải xuất phát từ cái cơ bản, cái gốc mới tạo nên
cái mới tuyệt đẹp hấp dẫn. Có rễ sâu cây cổ thụ mới sống lâu và vươn cao kiêu
hãnh giữa bầu trời. Đó là khi ta ngắm nhìn các nhà sàn đẹp và những chiếc váy
xòe màu sắc trên
bản.
Đường dài, vòng vòng qua
núi,
gần
nửa ngày đường tôi chẳng thấy nhà sàn, chỉ thấy toàn nhà bê tông, nhà lớp ngói,
lợp tôn lổn nhổn hai bên đường quốc lộ với lèo tèo với mấy cái quán ăn sơn lem
nhem, bán mấy thứ linh tinh trước cửa. Đến nơi chúng tôi được đón tiếp ở khu nhà
tầng như khu tập thể dưới Hà Nội thời bao cấp. Chúng tôi đến một nơi như doanh
trại cũ của Pháp trước kia. Thị trấn chẳng còn bóng nhà sàn, cũng chẳng thấy
bóng áo chàm. Các cháu người dân tộc và mọi người đều mặc quần áo như người
Kinh. Kinh hóa và xi măng đến tận đỉnh núi. Ngày hôm sau đúng phiên chợ, tôi mới
thấy một phụ nữ đứng tuổi mặc bộ váy người Dao, đeo vòng rất ấn tượng, và lác
đác vài người mặc trang phục dân tộc Tày. Chiều đi vào bản Hon, thăm nhà một
trưởng bản, tôi mới tận mắt thấy cái nhà sàn giữa núi rừng. Phụ nữ Tày đứng tuổi
ở đây còn giữ nếp sống cổ xưa không ra tiếp khách. Cụ trưởng bản Hon đón chúng
tôi. Trời đã chập choạng tối, thấp thoáng một người đàn bà mặc áo chàm đi lên
địu giỏ ngô khô mang cất lên góc nhà sàn để chuẩn bị làm rượu. Bây giờ tôi mới
hiểu, trang phục Tày hết sức đơn giản, chỉ có đơn thuần một màu chàm. Trang phục
giống nhau cho cả ngày lễ, ngày tang, ngày cưới, lao động, chợ
xuân...
Để làm thơm trang phục, phụ nữ Tày ướp loại
lá hoắc hương rất thơm, cũng thường dùng làm thuốc để trong rương đựng trang
phục. Bình thường thì họ dệt vải đơn giản hoặc mua vải nơi khác đem về nhuộm
chàm. Một số trang phục trang trọng hơn, họ dệt những hoa văn thiên nhiên quen
thuộc như hoa, lá ẩn trên vải. Khi nhuộm nét đó đậm mầu vằn lên trông rất đẹp.
Họa tiết được ký họa là những hình để thích hợp với việc dệt trên khung dệt. Bố
cục giản đơn họa tiết theo phương pháp ô quả trám có các đường viền xung quanh
tạo thành các đường diềm gãy khúc. Trong các ô quả trám là họa tiết cách điệu
hóa hình họa, hình ngọn rau bầu, bí là loại cây có liên quan nhiều đến nền văn
hóa cổ, tín ngưỡng cổ của nhiều cư dân nông nghiệp ở phía Bắc nước ta, trong đó
có người Tày. Trang phục của họ giản dị, nhưng đồ chăn màn, khăn che bàn thờ tổ
tiên lại có màu sắc, có thêm diềm ở phía trên tương ứng với cõi dương - Trời;
có hình các vị thần linh, bảo hộ cho sự sống bình an của con người và thêm đường
diềm ở phía dưới tương ứng với cõi âm - đất với hình con ngựa, con chim là
những hình tượng biểu trưng cho cuộc sống, cỏ cây, muông thú trên mặt đất như
quan niệm về vũ trụ của dân
gian.
Người Tày sống giản dị nhưng trân trọng
người đã khuất. Họ tin thế giới linh hồn bên kia luôn phù trợ họ. Họ trân trọng
làm lễ tiễn đưa hồn người đã khuất về thế giới bên kia. Mong muốn hạnh phúc nơi
vĩnh hằng, có âm dương hòa hợp, nên phụ nữ Tày không chồng không con tức là chưa
có hạnh phúc trong cuộc đời dương thế, về bên kia sẽ cũng cô đơn. Theo quan niệm
người Tày, những phụ nữ này vẫn phải hóa kiếp trở về cõi nhân gian. Khi nào đầy
đủ cuộc sống lứa đôi mới được lên trên thế giới vĩnh hằng đó. Đó là một quan
niệm nhân bản, để con người không sống ích kỷ, lẻ loi và chỉ nghĩ đến bản thân,
nam nữ phải hòa đồng, chia sẻ trong cuộc sống thực tại và có trách nhiệm bảo tồn
nòi giống. Kẻ cô đơn bị coi như là còn ích kỷ. Thế giới bên kia hạnh phúc, lứa
đôi, không có người cô đơn, bất hạnh, không có ích kỷ. Nên ai muốn về được thế
giới bên kia hạnh phúc, thì ngay từ khi còn sống phải cố gắng cho mình có hạnh
phúc lứa đôi và có trách nhiệm bảo tồn nòi giống. Một quan niệm hết sức nhân
bản. Một cách giúp con người phải đi tìm và xây dựng hạnh phúc để âm dương hòa
hợp ngay từ dương
gian.
Theo phong tục Tày hầu như các màu sắc chỉ
được dùng trong hoa văn trang trí trên mặt chăn hay các tấm thổ cẩm chứ không
được dùng trên trang phục. Người Tày mặc giống nhau như mặc đồng phục mang một ý
nghĩa nhân bản. Các dân tộc khác cũng có trang phục riêng để nhận nhau. Thời
trước không có căn cước, giấy tờ, con người hòa đồng cùng thiên nhiên, đi giữa
rừng có thể lạc hoặc xảy ra tai nạn. Nếu ai đó tình cờ trông thấy chỉ cần qua
sắc phục là họ biết dân tộc nào, thì họ giúp đưa về bản đó, hoặc gọi ra đón về.
Đó là hình thức nhận ra nhau và phân biệt với dân tộc xung quanh. Dù đi đâu,
người cùng dân tộc cũng nhận ra đồng hương qua trang phục. Trang phục Tày giản
dị nhất so với các trang phục dân tộc khác, không màu mè, để không phân biệt
nghèo giầu. Khi đến ngày lễ hội vui của bản, người nghèo không mặc cảm vì quần
áo, hay phải lủi trốn không dám đến. Họ sẽ không bị coi thường vì trang phục.
Khi đi ra đồng, hay tiếp khách đều tiện, không cầu kỳ phải thay trang phục,
không phải bận tâm vì không có quần áo sang mới dám đón khách. Khách chủ như
nhau. Quần áo không đánh giá con người. Tình người mới quan trọng. Thường ngày
lễ họ chỉ cần chọn bộ mới nhất đem ra mặc. Không ai bị chê cười vì không mặc
đúng kiểu, đúng thời trang. Không ai phải lựa chọn bạn đời qua mác hiệu quần áo.
Sự đơn điệu trong trang phục còn thể hiện nếp sống kỷ luật của dân tộc Tày. Tất
cả như nhau, khi giúp đỡ nhau, có thể mượn trang phục của nhau mà không ai biết
nghèo phải mượn… Người Tày vì lý do gì phải đi xa bản lập nghiệp khi trở về quê
hương không ngại bị đánh giá sự thành công nếu vẫn mặc quần áo sắc tộc đến chào
bà con.
Có người cho rằng mặc thế trông nghèo nàn.
Mỗi sắc tộc có quan niệm sống khác biệt. Chính sự đơn giản có thể là nguyên nhân
dân tộc Tày phát triển và giữ vững được cộng đồng của mình. Dân tộc Tày chiếm
20% tổng số dân tộc thiểu số (gồm 53 dân tộc trên 500 người, không tính người
Kinh, vậy người Tày có khoảng 1,6 triệu người, sống rải từng khu ở vùng núi miền
Bắc: Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Quảng Ninh,
Lào Cai, Hà Giang. Dân tộc Tày chiếm 1,89% dân số người Việt Nam, đứng thứ 2 sau
người Kinh. Dân tộc Tày phát triển mạnh dù địa lý hiểm trở, núi cao. Dân tộc
Thái cũng như dân tộc Tày có nguồn gốc chung ngôn ngữ cổ, văn hóa có những nét
tương đồng, nhưng trang phục Thái rất đa sắc. Có thể người Tày gốc chung một
nguồn, nhưng do ban đầu nghèo hơn, với lòng tự trọng cao, tự lập nên đã tách ra
và tạo nên dân tộc mang sắc thái riêng. Có thể tổ tiên ban đầu đi lập nghiệp
nghèo, đã hiểu được cái tầm quan trọng của trang phục đối với sự đoàn kết anh em
họ hàng, nên các trưởng tộc trong bản đã quyết định đơn giản hóa trang phục,
trong mọi sinh hoạt. Hơn nữa kỹ thuật nhuộm màu ban đầu không thể nhiều màu như
ngày nay. Màu chàm là màu thông dụng. Việc đơn giản hóa trang phục giúp người
phụ nữ nhiều thời gian chăm lo giáo dục con cái và đồng áng hơn là suốt ngày
phải lo trang phục đẹp để khoe với mọi người. Trang phục đồng bộ đơn giản giúp
con người xích lại dễ dàng hơn, đồng cảm và tính đồng hương cao. Thời trước,
ngay vua chúa Việt Nam cũng nghèo, trang phục đơn giản. Sự giản đơn của trang
phục dân tộc Tày đã tạo nên sự liên kết giữa con người với nhau, mang ý nghĩa
nhân bản trong sự tương trợ giúp đỡ nhau khi xã hội kinh tế chưa phát triển, còn
du canh du cư trên miền núi phía Bắc lạnh lẽo và đầy thú
dữ.
Rất tiếc ngày nay các bản người Tày đã bị
Kinh hóa nhiều, các cô gái Tày mặc quần bò, váy đầm ngắn. Tất nhiên trong sự hội
nhập với cả nước, và để phù hợp với công nghiệp hiện đại, họ không biết rằng họ
sẽ đang rơi vào xu hướng mất bản sắc dân tộc. Khách du lịch đến Bắc Kạn hay đi
Tuyên Quang, Hà Giang… ngắm hồ Ba Bể hay miền núi hoang sơ chứ không phải để
ngắm những nam nữ dân tộc mặc quần bò, áo thun, nghe hát rap, và xem những ngôi
nhà xi măng, nhà lầu, xe hơi… Họ thèm khát sự thay đổi không khí trong lành chưa
bị ô nhiễm vì công nghiệp, với những con ngựa thồ trên núi, với những tiếng khèn
gọi bạn, với những trang phục dân tộc và những nhà sàn lạ mắt… Đó là một nguồn
thu nhập du lịch đáng kể, nếu như biết tổ chức và khai thác. Ngay bên bờ biển
sát vách núi ở vùng Saint Lunaire, một vùng biển phía Tây Bắc nước Pháp, nơi có
rất nhiều người đã từng có mặt ở Đông Dương, nỗi nhớ Đông Dương cho họ một ý
tưởng lợp nhà bằng gianh, và đặt tên Quán “Gianh” (Bar “chaumière”). Trong khi
đó chúng ta đang có sẵn lại phá đi để xây mấy cái nhà lợp tôn nóng bức, làm hỏng
cả quần thể của núi rừng phía Bắc. Tại sao chúng ta không nghiên cứu sử dụng kỹ
thuật hiện đại kết hợp dùng nóc nhà gianh, xây kiểu nhà sàn, vẫn bền và giữ bản
sắc dân tộc và thu hút được khách du
lịch?
Nếu qua Paris chúng ta có thể gặp nhiều
người phụ nữ Ấn Độ vẫn khoác cái khăn, áo xà rông của họ ngoài phố, phụ nữ châu
Phi mặc áo màu rực rỡ giữa thành phố văn minh đầy kiêu hãnh, ở Việt Nam chúng ta
ít khi gặp người thiểu số mặc trang phục dân tộc đi ngoài thành phố lớn. Phải
chăng họ bị mặc cảm vì sự xa lạ giữa quần thể người Kinh đông đúc? Người Việt
vốn hay tò mò nhìn họ, xem là dân trên núi xuống. Họ chỉ thay trang phục khi có
yêu cầu buổi dạ hội, và có xe đến đón đi biểu diễn, hoặc đến nơi mới thay, họ
không mặc trang phục của dân tộc mình ra đường. Ngày nay nhiều người mặc áo đũi,
vải thô mát, kiểu dân tộc ở thành phố đã tạo ra một cái nhìn quen thuộc. Nhưng
những tấm áo dài phụ nữ dân tộc hầu như không thấy xuất hiện ngoài đường. Tất
nhiên do điều kiện giao thông, trang phục phụ nữ dân tộc không thể chen lấn ô tô
buýt hay tàu xe, nhưng tại sao họ lại bắt chước trang phục phụ nữ phương Tây mặc
váy ngắn dài đi làm bằng xe máy, xe đạp được, nhưng lại ngại mặc quần áo dân tộc
của chính họ? Sự quen mắt và lạ đẹp sẽ trở thành mốt. Phụ nữ Kinh giờ đây sành
điệu cũng sử dụng vòng bạc khuyên bạc kiểu dân tộc, khoác túi thổ cẩm đa sắc,
trông vừa hiện đại vừa dân tộc tính khi đi chơi. Chúng ta biết mang trang phục
thổ cẩm ra giới thiệu với người phương Tây, nhưng lại ngại giới thiệu với dân cả
nước cùng đồng bào mình. Khi ra nước ngoài thì người Kinh lại mang túi, khăn,
áo, quần thổ cẩm làm quà cho bạn Tây. Người dân tộc đang nắm trong tay cái bảo
vật quý, quốc hồn quốc túy mà họ không biết trân
trọng.
Dân tộc Bách Việt vốn đa màu sắc, tại sao
chúng ta không khuyến khích mọi người mặc áo dân tộc ngoài phố để giúp phát
triển kinh tế các vùng dân tộc và giữ bản sắc phong phú các dân tộc mà lại đi
nhập cảng tràn lan những áo rẻ tiền bắt chước dân tộc thiểu số và nhuộm dởm bằng
hóa chất. Ngày hội vui, tại sao mọi người cứ phải thích hóa trang kiểu Tây không
hóa trang làm 54 dân tộc, vừa lôi kéo khách du lịch vừa đậm đà bản sắc dân tộc.
Cái gì ban đầu lạ, nhưng dùng nhiều thành quen mắt và trở thành quốc túy. Phở,
nem Việt Nam được thế giới biết đến như thịt bò Kobe, Pizza, Mcdonald, được biết
đến ở Việt Nam hiện nay… Vậy để phát huy và giữ bản sắc dân tộc, phải chính bản
thân người dân tộc phải nỗ lực và tự hào cái mình hiện có, đem nó từ cái không
phổ biến của dân tộc ít người trở thành cái phổ biến, như vòng bạc, áo khăn thổ
cẩm và các món ăn đặc sản của núi rừng. Trong khi trang phục của các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam tuyệt diệu ít được khai thác, thì quần áo trang phục Tây thì
được bày bán nhan nhản và toàn sản xuất từ Trung Quốc. Tiếng Việt phong phú,
nhưng các chương trình giải trí trên vô tuyến lại dùng tiếng Anh dân dã xen vào
như “yes” rồi vỗ tay vào nhau đánh chát, chưa kể người dẫn chương trình (gọi là
M.C) còn phát âm chưa chuẩn ngoại ngữ, đôi khi gây nực cười như “Việt Nam ai đần
(idol)”…
Người Việt hầu như ai cũng giữ tục lệ thờ
cúng tổ tiên. Hồn các cụ về tưởng bị lạc đường, nhầm nhà vì ngôn ngữ loạn tiếng
Anh nhiều. Người ta thi nhau dịch trinh thám, chuyện rùng rợn ở phương Tây,
trong khi các dân tộc ít người có nhiều chuyện truyền khẩu ly kỳ hấp dẫn không
kém. Dương Thuấn nhà thơ dân tộc Tày, đã chịu khó sưu tầm ghi chép lại thơ,
truyện truyền khẩu, cùng phong tục của dân tộc mình giới thiệu ra cho cả nước và
thế giới biết. Lê Anh Hoài người Kinh đi ngược xu hướng thức thời của thiên hạ
bằng việc đem thơ mình nhờ dịch ra tiếng thiểu số: Kh’mer, Lô Lô, K’Ho và chữ
Nôm để mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc gìn giữ bản sắc ngôn ngữ dân tộc và
hòa nhập dân tộc. Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn, nổi tiếng nhờ chất
ly kỳ rùng rợn của rừng tác giả tích lũy được sau nhiều năm chung sống với đồng
bào thiểu số… Đó là khát vọng của một số người cầm bút tâm huyết với văn hóa
ngôn ngữ dân tộc, yêu thiên nhiên muôn màu và hòa hợp các dân
tộc.
Sự tồn tại của bản sắc riêng của hồn dân tộc đánh dấu sự
hiện diện của nó. Hương hoa hồng khác hoa nhài, hoa cúc, hoa lan. Thiên nhiên
đẹp vì đa màu sắc, đa hương. Hoa nào cũng thơm, cũng đẹp, nét đặc
trưng văn hóa nào cũng mang tính nhân bản và hữu ích riêng nếu ta biết nâng niu,
trân trọng nó. Sự lai căng cũng tạo sắc thái riêng, nhưng sẽ giết dần bản sắc
dân tộc. Tất cả mọi xu hướng đều quý, nhưng bản sắc dân tộc cần giữ như bảy nốt
nhạc cơ bản làm nên bản nhạc giao hưởng hùng tráng hay thiết tha nhờ người soạn
giả xuất chúng và cũng chỉ mấy màu cơ bản hòa quyện thành những bức tranh đẹp
dưới tay người họa sỹ tài
ba.
Phải xuất phát từ cái cơ bản, cái gốc mới
tạo nên cái mới tuyệt đẹp hấp dẫn. Có rễ sâu cây cổ thụ mới sống lâu và vươn cao
kiêu hãnh giữa bầu
trời.
Hồng Hải
Phong tục văn hóa của dân tộc Tày (Hoàng Thị Khuyên)
Hình ảnh Phong tục văn hóa của dân tộc
Tày
Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có
thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Họ có truyền thống làm
ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng các biện pháp thuỷ lợi như
đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng.
Sản phẩm nông nghiệp có đủ các loại như
lúa, ngô, khoai, sắn và các loại rau... Các loại quả lê, táo, mận, quýt, hồng
ngon nổi tiếng ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng. Đồng bào còn trồng các loại cây
công nghiệp như thuốc lá, trẩu, hồi,
chè.
Người Tày có nghề thủ công phong phú, đa
dạng, nam nữ đều biết đan các đồ dùng bằng cót, bồ, sọt, rổ, nơm, đó… Nghề làm
gạch, ngói, nung vôi có ở nhiều nơi. Nghề kéo dầu thực vật để ăn và thắp cũng
khá phổ biến. Lạng Sơn có nghề chưng cất dầu hồi đã có truyền thống từ lâu.
Người Tày tự túc được các loại vải để may váy áo, làm màn, khăn mặt, chăn… Nhiều
vùng dệt thổ cẩm rất đẹp, nuôi tằm kéo tơ dệt lụa. Nghề rèn đã có mặt ở nhiều
nơi để làm ra nông cụ như: Lưỡi cày, cuốc, xẻng, hái, các loại
dao…
Từ lâu, người Tày đã cư trú tập chung thành
bản, thường ở ven các thung lũng, triền núi thấp trên một miền thượng du. Mỗi
bản có từ 15 đến 20 nóc nhà, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà. Ngôi nhà truyền
thống của người Tày là nhà sàn, họ thường chọn những loại gỗ quý để dựng nhà.
Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hoặc lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc
che bằng liếp
nứa.
Theo phong tục truyền thống, hầu hết người
Tày kết hôn trong cùng dòng họ. Gia đình người Tày theo chế độ gia đình hạt
nhân, phụ hệ, một vợ một chồng. Thanh niên nam nữ được tự do tìm hiểu trước khi
đi đến hôn nhân. Thế nhưng, có đi đến hôn nhân hay không lại do hai gia đình
quyết định. Hôn lễ truyền thống của người Tày được tiến hành qua các nghi thức:
Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ đón dâu, đưa dâu…,
thể hiện bản sắc văn hoá của một tộc người. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ
cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng. Gia đình
người Tày thường quí con trai hơn và có qui định rõ ràng trong quan hệ giữa các
thành viên trong
nhà.
Người Tày quan niệm, người chết linh hồn
tiếp tục sống ở thế giới bên kia. Nếu người chết bất đắc kỳ tử thì người Tày làm
lán quàn quan tài, làm ma chôn tại chỗ. Trẻ em chết thì bó chiếu chôn rất xa
nhà. Người già chết thì làm ma trên sân nhà ở. Khi bố mẹ qua đời, người con trai
cả đeo dao, mang một gói muối đi mời thầy tào đến cúng làm đám tang. Người con
đeo dao suốt những ngày diễn ra tang lễ. Hàng năm, người Tày chỉ đi tảo mộ người
chết vào tết Thanh Minh (ngày 3/3 âm lịch) và chỉ cúng tổ tiên vào ngày rằm,
mồng một, ngày Tết như cúng các thần linh
khác.
Trang phục cổ truyền của người Tày được làm
từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như
không có hoa văn trang trí. Nữ có áo cánh ngắn may cổ cao, năm thân, cài năm
khuy ở cổ và sườn bên phải, quần dài, thắt lưng, khăn. Ngày lễ hội, mặc thêm áo
cánh trắng bên trong. Trước kia, phụ nữ Tày nhiều vùng cũng mặc váy, gần đây
chuyển sang mặc quần, dài chấm gót, quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa. Phụ nữ
Tày còn có áo dài kiểu như áo ngắn, vạt buông dài quá đầu gối. Đồ trang sức có
vòng cổ, vòng tay, vòng chân và dây xà tích bằng bạc.
Hoàng Thị Khuyên
Hình ảnh Phong tục văn hóa của dân tộc
Tày
Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có
thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Họ có truyền thống làm
ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng các biện pháp thuỷ lợi như
đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng.
Sản phẩm nông nghiệp có đủ các loại như
lúa, ngô, khoai, sắn và các loại rau... Các loại quả lê, táo, mận, quýt, hồng
ngon nổi tiếng ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng. Đồng bào còn trồng các loại cây
công nghiệp như thuốc lá, trẩu, hồi,
chè.
Người Tày có nghề thủ công phong phú, đa
dạng, nam nữ đều biết đan các đồ dùng bằng cót, bồ, sọt, rổ, nơm, đó… Nghề làm
gạch, ngói, nung vôi có ở nhiều nơi. Nghề kéo dầu thực vật để ăn và thắp cũng
khá phổ biến. Lạng Sơn có nghề chưng cất dầu hồi đã có truyền thống từ lâu.
Người Tày tự túc được các loại vải để may váy áo, làm màn, khăn mặt, chăn… Nhiều
vùng dệt thổ cẩm rất đẹp, nuôi tằm kéo tơ dệt lụa. Nghề rèn đã có mặt ở nhiều
nơi để làm ra nông cụ như: Lưỡi cày, cuốc, xẻng, hái, các loại
dao…
Từ lâu, người Tày đã cư trú tập chung thành
bản, thường ở ven các thung lũng, triền núi thấp trên một miền thượng du. Mỗi
bản có từ 15 đến 20 nóc nhà, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà. Ngôi nhà truyền
thống của người Tày là nhà sàn, họ thường chọn những loại gỗ quý để dựng nhà.
Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hoặc lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc
che bằng liếp
nứa.
Theo phong tục truyền thống, hầu hết người
Tày kết hôn trong cùng dòng họ. Gia đình người Tày theo chế độ gia đình hạt
nhân, phụ hệ, một vợ một chồng. Thanh niên nam nữ được tự do tìm hiểu trước khi
đi đến hôn nhân. Thế nhưng, có đi đến hôn nhân hay không lại do hai gia đình
quyết định. Hôn lễ truyền thống của người Tày được tiến hành qua các nghi thức:
Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ đón dâu, đưa dâu…,
thể hiện bản sắc văn hoá của một tộc người. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ
cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng. Gia đình
người Tày thường quí con trai hơn và có qui định rõ ràng trong quan hệ giữa các
thành viên trong
nhà.
Người Tày quan niệm, người chết linh hồn
tiếp tục sống ở thế giới bên kia. Nếu người chết bất đắc kỳ tử thì người Tày làm
lán quàn quan tài, làm ma chôn tại chỗ. Trẻ em chết thì bó chiếu chôn rất xa
nhà. Người già chết thì làm ma trên sân nhà ở. Khi bố mẹ qua đời, người con trai
cả đeo dao, mang một gói muối đi mời thầy tào đến cúng làm đám tang. Người con
đeo dao suốt những ngày diễn ra tang lễ. Hàng năm, người Tày chỉ đi tảo mộ người
chết vào tết Thanh Minh (ngày 3/3 âm lịch) và chỉ cúng tổ tiên vào ngày rằm,
mồng một, ngày Tết như cúng các thần linh
khác.
Trang phục cổ truyền của người Tày được làm
từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như
không có hoa văn trang trí. Nữ có áo cánh ngắn may cổ cao, năm thân, cài năm
khuy ở cổ và sườn bên phải, quần dài, thắt lưng, khăn. Ngày lễ hội, mặc thêm áo
cánh trắng bên trong. Trước kia, phụ nữ Tày nhiều vùng cũng mặc váy, gần đây
chuyển sang mặc quần, dài chấm gót, quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa. Phụ nữ
Tày còn có áo dài kiểu như áo ngắn, vạt buông dài quá đầu gối. Đồ trang sức có
vòng cổ, vòng tay, vòng chân và dây xà tích bằng bạc.
Hoàng Thị Khuyên
Tìm hiểu văn hoá của dân tộc Tày (Đàm Minh Phiếu)
Tìm hiểu truyền thống văn hóa dân tộc
Tày
Dân tộc Tày có số dân đông thứ 2 chỉ sau người kinh, với
các nhóm địa phương gồm có: Pa di, Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao đây là một trong số
các dân tộc ít người ở Việt Nam. Cùng xem nét văn hóa truyền thống
của dân tộc này ra sao nhé:
Độc đáo với trang phục truyền thống của dân
tộc Tày
Người Tày chủ yếu sinh sống ở vùng núi thấp tại phía bắc Việt Nam, tiếng
nói và chữ viết riêng gọi là tiếng Tày, đây là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái
của hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. Người Tày có mối quan hệ khá gần gũi với người Choang
ở Trung
Quốc.
Dân tộc Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.
Theo một số tài liệu thu thập được thì có thể họ có mặt ở Việt Nam từ thiên niên
kỉ thứ nhất trước công nguyên. Thời gian sinh sống lâu dài đã tạo ra một nền văn
hóa dân tộc Tày vô cùng độc đáo, nó được thể hiện rõ nét thông qua lối sống hay
chính trang phục cổ truyền cùng với những điệu múa đẹp và lạ
mắt.
Lối sống của dân tộc Tày có gì đặc
sắc?
Những đổi thay từ ngôi nhà sàn truyền thống
của người Tày Lạng
Sơn
Người dân Tày thường sống tập trung thành
bản. Mỗi bản có khoảng 20 hộ gia đình, nhiều bản lớn có tới hàng trăm hộ gia
đình.
Họ thường sinh sống trong những ngôi nhà
sàn được dựng bằng các loại gỗ quý. Mái nhà thường được lợp bằng ngói, tranh
hoặc cây cọ. Xung quanh nhà được rào bằng ván gỗ hoặc liếp nứa. Dân Tộc Tày có
nhiều nghề thủ công như đan đồ dùng bằng cót, kéo dầu thực vật, dệt vải, nghề
rèn
Người Tày có phong tục kết hôn trong cùng
một dòng họ, gia đình thường theo chế độ gia đình hạt nhân, phụ hệ trong đó
người đàn ông là trụ cột của gia đình. Họ sống theo chế độ một vợ một
chồng.
Trang phục của người dân tộc Tày với những
nét hoa văn hấp
dẫn
Thanh niên được tự do tìm hiểu đối tượng
trước khi kết hôn. Hôn lễ truyền thống của người Tày gồm có các nghi thức như:
dạm, ăn hỏi, sêu tết, đón dâu, đưa dâu,…mang đậm bản sắc văn hóa
sapa.
Quan niệm của người Tày về người chết cũng
vô cùng độc đáo. Theo họ, người chết thì linh hồn sẽ sống ở thế giới bên kia.
Nếu người chết bất đắc kỳ tử thì phải làm ma và chôn tại chỗ. Trẻ em chết yểu
thì bó chiếu và chôn cất ở nơi xa nhà. Người Tày không thờ cúng tổ tiên. Họ chỉ
đi tảo mộ vào ngày thanh minh và cũng chỉ cúng tổ tiên vào ngày rằm, mồng một và
ngày tết
Trang phục truyền thống của dân tộc Tày
Quần áo của phụ nữ dân tộc Tày thường là
màu đen
Bộ trang phục truyền thống chính là minh
chứng rõ nét nhất cho đặc trưng văn hóa dân tộc Tày. Trang phục được dệt từ sợi
bông và nhuộm màu chàm. Hầu như trang phục của người Tày đều không có hoa văn
trang trí. Ngày thường, phụ nữ sẽ mặc áo cánh ngắn may cổ cao, năm thân có cài
khuy ở cổ và sườn bên phải cùng với quần dài kèm thắt lưng và
kahưn.
Trong những dịp lễ hội có thể mặc thêm áo
cánh nagứn bên trong. Ngày nay, phụ nữ Tày thường mặc quần dài chấm gót hoặc
quần chân què có đũng rộng, cạp lá tọa. Ngoài ra còn có thêm một kiểu áo dài
kiểu như áo ngắn có vạt áo buông dài quá
gối.
Đàn ông có quần chân què đũng quần rộng và
cạp lá tọa. Áo ngắn cũng may năm thân, cổ đứng. Đàn ông cũng có kiểu áo dài như
áo ngắn kéo vạt dài đến quá đầu
gối
Văn nghệ cổ truyền của dân tộc
Tày
Biểu diễn múa hát trong lễ hội của người
Tày
Người Tày có nền văn nghệ vô cùng phong phú
mang đậm nét văn hoá dân tộc Tày với một kho tàng đồ sộ các thể loại thơ, ca,
truyện cổ tích, múa, nhạc, truyện cười dân gian,…Các điệu dân ca phổ biến nhất
là hát ru con, hát đám cưới và hát lượn. Có nhiều điệu hát lượn phổ biến như:
lượn Slương, lượn Then, lượn nàng
Hai.
Ngoài ra còn có các điệu hát Then hay còn
gọi là hát văn ca được hát trong các đám tang, điệu Cỏ lầu hát trong đám cưới
hoặc trong các hội Lồng
Tồng.
Tôn vinh trang phục truyền thống các dân
tộc
Nếu có cơ hội bạn hãy tự mình đi khám phá
những nét đặc sắc của dân tộc hay các khu resort sapa, cảnh đẹp, quà tặng… để
biết thêm nữa nhé!
Đàm Minh
Phiếu
Tìm hiểu truyền thống văn hóa dân tộc
Tày
Dân tộc Tày có số dân đông thứ 2 chỉ sau người kinh, với
các nhóm địa phương gồm có: Pa di, Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao đây là một trong số
các dân tộc ít người ở Việt Nam. Cùng xem nét văn hóa truyền thống
của dân tộc này ra sao nhé:
Độc đáo với trang phục truyền thống của dân
tộc Tày
Người Tày chủ yếu sinh sống ở vùng núi thấp tại phía bắc Việt Nam, tiếng
nói và chữ viết riêng gọi là tiếng Tày, đây là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái
của hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. Người Tày có mối quan hệ khá gần gũi với người Choang
ở Trung
Quốc.
Dân tộc Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.
Theo một số tài liệu thu thập được thì có thể họ có mặt ở Việt Nam từ thiên niên
kỉ thứ nhất trước công nguyên. Thời gian sinh sống lâu dài đã tạo ra một nền văn
hóa dân tộc Tày vô cùng độc đáo, nó được thể hiện rõ nét thông qua lối sống hay
chính trang phục cổ truyền cùng với những điệu múa đẹp và lạ
mắt.
Lối sống của dân tộc Tày có gì đặc
sắc?
Những đổi thay từ ngôi nhà sàn truyền thống
của người Tày Lạng
Sơn
Người dân Tày thường sống tập trung thành
bản. Mỗi bản có khoảng 20 hộ gia đình, nhiều bản lớn có tới hàng trăm hộ gia
đình.
Họ thường sinh sống trong những ngôi nhà
sàn được dựng bằng các loại gỗ quý. Mái nhà thường được lợp bằng ngói, tranh
hoặc cây cọ. Xung quanh nhà được rào bằng ván gỗ hoặc liếp nứa. Dân Tộc Tày có
nhiều nghề thủ công như đan đồ dùng bằng cót, kéo dầu thực vật, dệt vải, nghề
rèn
Người Tày có phong tục kết hôn trong cùng
một dòng họ, gia đình thường theo chế độ gia đình hạt nhân, phụ hệ trong đó
người đàn ông là trụ cột của gia đình. Họ sống theo chế độ một vợ một
chồng.
Trang phục của người dân tộc Tày với những
nét hoa văn hấp
dẫn
Thanh niên được tự do tìm hiểu đối tượng
trước khi kết hôn. Hôn lễ truyền thống của người Tày gồm có các nghi thức như:
dạm, ăn hỏi, sêu tết, đón dâu, đưa dâu,…mang đậm bản sắc văn hóa
sapa.
Quan niệm của người Tày về người chết cũng
vô cùng độc đáo. Theo họ, người chết thì linh hồn sẽ sống ở thế giới bên kia.
Nếu người chết bất đắc kỳ tử thì phải làm ma và chôn tại chỗ. Trẻ em chết yểu
thì bó chiếu và chôn cất ở nơi xa nhà. Người Tày không thờ cúng tổ tiên. Họ chỉ
đi tảo mộ vào ngày thanh minh và cũng chỉ cúng tổ tiên vào ngày rằm, mồng một và
ngày tết
Trang phục truyền thống của dân tộc Tày
Quần áo của phụ nữ dân tộc Tày thường là
màu đen
Bộ trang phục truyền thống chính là minh
chứng rõ nét nhất cho đặc trưng văn hóa dân tộc Tày. Trang phục được dệt từ sợi
bông và nhuộm màu chàm. Hầu như trang phục của người Tày đều không có hoa văn
trang trí. Ngày thường, phụ nữ sẽ mặc áo cánh ngắn may cổ cao, năm thân có cài
khuy ở cổ và sườn bên phải cùng với quần dài kèm thắt lưng và
kahưn.
Trong những dịp lễ hội có thể mặc thêm áo
cánh nagứn bên trong. Ngày nay, phụ nữ Tày thường mặc quần dài chấm gót hoặc
quần chân què có đũng rộng, cạp lá tọa. Ngoài ra còn có thêm một kiểu áo dài
kiểu như áo ngắn có vạt áo buông dài quá
gối.
Đàn ông có quần chân què đũng quần rộng và
cạp lá tọa. Áo ngắn cũng may năm thân, cổ đứng. Đàn ông cũng có kiểu áo dài như
áo ngắn kéo vạt dài đến quá đầu
gối
Văn nghệ cổ truyền của dân tộc
Tày
Biểu diễn múa hát trong lễ hội của người
Tày
Người Tày có nền văn nghệ vô cùng phong phú
mang đậm nét văn hoá dân tộc Tày với một kho tàng đồ sộ các thể loại thơ, ca,
truyện cổ tích, múa, nhạc, truyện cười dân gian,…Các điệu dân ca phổ biến nhất
là hát ru con, hát đám cưới và hát lượn. Có nhiều điệu hát lượn phổ biến như:
lượn Slương, lượn Then, lượn nàng
Hai.
Ngoài ra còn có các điệu hát Then hay còn
gọi là hát văn ca được hát trong các đám tang, điệu Cỏ lầu hát trong đám cưới
hoặc trong các hội Lồng
Tồng.
Tôn vinh trang phục truyền thống các dân
tộc
Nếu có cơ hội bạn hãy tự mình đi khám phá
những nét đặc sắc của dân tộc hay các khu resort sapa, cảnh đẹp, quà tặng… để
biết thêm nữa nhé!
Đàm Minh
Phiếu