This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Tiệm cận tín ngưỡng người Tày qua nghi lễ hát Then (Trần Hoàng Tiến)

1. Sơ lược nguồn gốc và tộc danh Tày
Theo số liệu công bố năm 1999, tổng số dân Tày là 1.447.514 người, đứng vị trí thứ hai sau người Kinh, sống tập trung ở vùng Việt Bắc, chủ yếu tại Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên, Lạng Sơn.

Về nguồn gốc, Tày (và Nùng) thuộc khối cư dân Bắc Việt cư trú lâu đời trên khu vực nam Trung Quốc và bắc Việt Nam. Quá trình cùng chung sống lâu dài đã chịu nhiều ảnh hưởng văn hoá Việt trở thành người Tày (Việt Nam) và văn hoá Hán thành người Choang Đồng (Trung Quốc). Ở Quảng Tây hiện nay vẫn tồn tại các nhóm Choang Đồng với các tên: Pò Choang, Pò Đề Di, Pò Nồng, Pò Tày[3].
Tộc danh Tày bắt nguồn từ cách nêu đặc điểm của nhóm người chuyên nghề cày ruộng, làm lúa nước, nông cụ tiêu biểu là chiếc cày. Trong tiếng Tày- Thái cổ cày gọi là Mạc Thay hay Thây rồi biến âm thành Tày và Thái[2, tr.46], bằng dụng ý rõ ràng hơn khi người Tày được gọi là Cần Nà- Người cày ruộng. Người Tày nói chung đều tự nhận là Cần Tày, tuỳ theo từng nơi có tên Tày bốc- Tày cạn sống vùng núi và Tày nặm- Tày nước làm bản dựng nhà dưới thung lũng nhiều sông suối. Từ thế kỷ XV để phân biệt với Thổ quan từ dưới xuôi lên cai trị, người Tày còn có tên là Thổ với hàm nghĩa thổ địa ám chỉ nhóm người đã sinh sống lâu đời nơi đây.


Như vậy người Tày cổ (Âu Việt) đã dung hợp với nhóm Việt Mường cổ (Lạc Việt) ngay từ buổi đầu dựng nước, góp phần quan trọng hình thành nên dân tộc Việt Nam.

2. Văn hoá tín ngưỡng dân gian Tày
Sơ đồ chỉ hướng:
Trong tam giáo, ảnh hưởng của đạo giáo nổi trội hơn, đạo giáo còn gọi là Lão giáo do Lão Tử sáng lập trước công nguyên hàng trăm năm, tuy vậy về sau chỉ có đạo giáo của Trương Đạo Lăng[2] phổ biến trong tín ngưỡng dân gian Tày, tính chất mang nhiều yếu tố shaman như: tu tiên, luyện đan, đồng cốt, ma thuật phù thuỷ, chiêm tinh, bói toán.
Như vậy, tín ngưỡng người Tày bắt nguồn từ thủa xa xưa, khởi sinh từ ý thức bảo vệ cộng đồng thị tộc, đây là lớp tảng nền sơ khai thứ nhất. Trải qua thời gian, tín ngưỡng bản địa Tày chịu sự tác động của người Việt khi hai tộc người Âu Việt và Lạc Việt cùng nhau liên thủ, đây là lớp văn hoá thứ hai, tuy vậy do tương đồng nên giữa Âu Việt và Lạc Việt luôn có sự gắn bó chặt chẽ. Sự xuất hiện tam giáo du nhập vào là lớp thứ ba đã biến đổi tín ngưỡng Tày sang dạng thức như ngày nay.
GS.TS Ngô Đức Thịnh nhận xét:…kết quả của sự hỗn dung, pha tạp giữa tín ngưỡng bản địa và tam giáo (Phật- Đạo- Nho) đã hình thành và tồn tại một số tín ngưỡng đặc thù: Then, Tạo, Pụt, Mo với tư cách là thày cúng Then, Tào, Pụt, Mo tham gia vào hầu hết các nghi lễ của tín ngưỡng người Tày, Nùng, từ thờ cúng tổ tiên trong gia đình tới các hình thức thờ thổ thần, thành hoàng của cộng đồng  [6, tr.5].


3. Hiện tượng shaman trong Then Tày
Bản chất Then là gì? Nguồn gốc như thế nào? Những biểu hiện của then trong tín ngưỡng người Tày ra sao? Trong nội dung này sẽ xem xét và giải mã hiện tượng Then.
 Có một số giả thuyết quá trình xuất hiện Then trong đời sống tâm linh của người Tày, dựa trên tư liệu dân gian, truyền thuyết từ nhiều vùng khác nhau, đặc biệt là của các tác giả ở Cao Bằng như Hoa Cương, Dương Sách, Triều Ân đều cho rằng Then chính thức ra đời khi nhà Mạc bị thất sủng chạy trốn lên Cao Bằng cát cứ (thế kỷ XVI, XVII)[9]. Đây là sự kiện lịch sử có thật, phản ánh giai đoạn văn hoá Việt- Tày đan cài tại Cao Bằng, để lại đến ngày nay trong Then nhiều trường đoạn hát bằng tiếng Kinh.
Hoàng Tuấn cho rằng: đại bộ phận các ông bà then cắt nghĩa then là tiên, là môn tiên, là trời [8,tr.88], cách giải nghĩa mở rộng hơn dưới góc độ dân tộc học với quan niệm Then là một từ cổ trong vốn từ ngữ Tày- Thái, gốc ban đầu có chung một nghĩa[8]. GS.TS Ngô Đức Thịnh[6] và PGS Vũ Ngọc Khánh[3] cùng chung quan niệm: Then có nghĩa là tiên, cũng như Pụt nghĩa là phật.
Như vậy, Then được hiểu là người cõi trời, giữ mối liên hệ giữa người trần gian với Ngọc Hoàng Thượng Đế trên trời, nhưng cách giải thích trên chưa tầm nguyên đầy đủ về Then. TS Nguyễn Thị Yên[10] tìm cách giải mã lớp tiền tố Then, và nêu rõ các hình thức nhập đồng tồn đọng yếu tố shaman giáo trong các trò chơi của trẻ em, chủ yếu là những nàng tiên/ linh hồn như: nàng Trứng, nàng Cám, nàng Sọt, nàng Hương mang đậm tín ngưỡng bản địa nguyên thuỷ. Đây là tín ngưỡng sliên (tiên)- yếu tố tiền then, chữ sliên- tiên vay mượn từ chữ Hán, về sau dùng để chỉ hình thức cúng bái bản địa liên quan đến sự nhập đồng của then nữ.
Để trở thành ông Then hay bà Then, người Tày cho rằng do căn số, ma then nhập vào. GS.TS Ngô Đức Thịnh[6] nêu hai trường hợp trở thành Then: a) có căn then (mỉng bang) và b) gia đình, dòng dõi có người làm Then (tẩn then). Trong cuộc đời làm Then, ông Then hay bà Then trải qua nhiều lần thăng cấp (tâng) qua lễ lẩu Then, cấp Then biểu hiện ở số lượng dải mũ, tương đương với số quân mà Then cai quản. Như vậy Then là người đặc biệt trong cộng đồng Tày, có khả năng thông quan với thần linh, khi Then thăng cũng có nghĩa Then đã tiếp cận với thế giới siêu nhiên, đồng thời nhập vào mọi đối tượng phi để bắc cầu giao tiếp với người trần gian. Về hình thức và nội dung Then giống như hầu đồng của người Việt, GS.TS Võ Quang Trọng nhận xét: 'hầu đồng của người Việt và then của người Tày là hiện tượng con người tự thôi miên để đưa mình vào trạng thái ảo giác đặc biệt'[7, tr.44].
Trong nhiều công trình, các nhà nghiên cứu tín ngưỡng tộc người đều nhắc đến shaman như một dạng ảo giác đặc biệt và trạng thái ngây ngất- estasy. Đối với Then: shaman là hiện tượng biến hoá tư duy, tinh thần con người từ trạng thái này sang trạng thái khác theo cách hiểu xuất thần nhập thần, vậy shaman là gì?
Thuật ngữ shaman- thày pháp xuất hiện lần đầu tiên trong một số tài liệu ở Nga vào thế kỷ XVII, nguồn gốc từ tiếng Evenk (saman) của bộ lạc Tungus chuyên sống bằng nghề chăn nuôi tuần lộc ở Xibiri, biến đổi từ chữ  samana- tiếng Pali (hệ tiếng sancrit) được các nhà Phương Đông học chấp nhận vào thế kỷ XIX[11]. Gần một thế kỷ sau, thuật ngữ shaman giáo- shamanism trở nên thông dụng, xuất hiện trong nhiều công trình nghiên cứu Âu, Mỹ. Ở Trung Quốc, hiện tượng shaman có nhiều tên gọi, tên chung là Vu thuật, người hành nghề shaman là Vu sư. Tuy vậy tùy từng nơi gọi là thỉnh thần phụ thể, thần linh phụ thể, quỷ thần phụ thể, nhưng dịch sang tiếng Việt nhiều nhất là từ giáng thần phụ thể, nghĩa là cầu thần nhập xác. Tại Đông Nam Á, shaman là hình thức tôn giáo sơ khai tự thân hình thành trong các cuộc hành lễ hiến sinh nguyên thuỷ, được cộng đồng đón nhận như một dạng người đặc biệt, có khả năng phi thường, có bí quyết và sức mạnh ma thuật.
Tuy vậy, thời điểm xuất hiện shaman còn có nhiều ý kiến khác nhau. Theo trường phái lịch sử[12] shaman ra đời vào giai đoạn phân rã công xã thị tộc nguyên thuỷ kèm theo sự phân công địa vị một số người. Trường phái dân tộc học Trung Quốc cho rằng shaman tồn tại thời trung kỳ xã hội thị tộc mẫu hệ, lúc này vai trò người phụ nữ có quyền năng rất lớn. Với trường phái sinh học phát triển, shaman là hiện tượng của người mắc bệnh cuồng itteri, một loại bệnh thần kinh, nói cách khác tất cả các thày shaman đều biểu hiện bệnh thần kinh dạng phân tâm học được Freud phát hiện đầu thế kỷ XX. Khi hành nghề, các thầy shaman (cả nam lẫn nữ) bị kích động toàn thân, thực hiện những hành động đặc biệt lúc bình thường ít người làm được như: đi trên than nóng, đoán định tương lai, thần nhập, nói bằng ngôn ngữ chưa bao giờ học, hát múa suốt ngày…thực tế shaman là hiện tượng tồn tại trong hầu hết tất cả các tộc người trên thế giới.
GS.TSKH Tô Ngọc Thanh nêu bản chất shanman là tạo nên yếu tố thiêng phát xuất khi tiến hành nghi lễ (trong then Tày và hầu đồng Việt), từ đó lan toả khắp xung quanh, khiến mọi đối tượng tham gia đều chịu ảnh hưởng. Điều kiện để thiêng hình thành là âm nhạc, múa, do đó Then không thể thiếu hai loại hình nghệ thuật này cùng tham gia. TS Nguyễn Thị Hiền[1] khi tiến hành khảo sát thực tế nghề làm Then tại một số địa bàn người Tày cho biết hầu hết sau lễ cúng, các ông Then, bà Then đều không nhớ lại được hành động, ngôn ngữ khi rơi vào trạng thái xuất thần lúc hành lễ.


4. Các thành tố diễn xướng trong nghệ thuật Then
Phương tiện hành nghề Then gồm:
- Quả trứng, chim én: là vật thiêng đóng vai trò dẫn hồn Then.
- Bằng sắc và ấn của Ngọc Hoàng cấp để Then vào các cửa thần linh.
- Quạt phép (quạt trời): giúp Then tạo nhiều động tác biến hoá như bay bổng trên mây, xuống âm phủ, đi dưới nước.
- Gương dùng trừ tà, soi sáng đường Then đi.
- Đàn Tính: nguồn khải lực để Then thoát hồn, thông quan với các loại thần linh.
- Chùm xóc nhạc- Miạc: lực lượng âm binh để Then sai khiến.
Những đồ vật biểu trưng linh giáo như: trứng, chim én, gương, quạt qua tay Then đầy tính ma thuật dưới dạng phù thuỷ. Nhưng nổi trội và tạo nên giá trị thu hút toàn thể cộng đồng là nghệ thuật Then- nhân lõi cốt yếu xuyên suốt quá trình xuất, nhập thần. Nhiều nhà nghiên cứu đồng nhất ý kiến: Then Tày là hiện tượng văn hoá dân gian tổng thể có tính nguyên hợp (syncretic), là hình thức nghi lễ diễn xướng nghệ thuật tổng hợp gồm có hát, nhạc, múa, trang phục [7,tr.44], hoặc then là một nghi lễ tôn giáo được diễn xướng bằng hình thức hát, hát kể có kèm theo nhạc và nhảy múa, ngoài ra còn có những biểu tượng tôn giáo mang tính tượng trưng và nhiều yếu tố sân khấu dân gian[1,tr.74]. PGS.TS Nguyễn Thuỵ Loan tham chiếu các hệ thống tín ngưỡng tộc người ở Việt Nam đã khái quát:…tín ngưỡng tôn giáo là một trong những môi trường quan trọng cho sự sáng tạo và nảy sinh âm nhạc…[4,tr.65].
Như vậy, diễn xướng nhạc- hát- múa là động cơ bên trong nảy sinh không gian thiêng, giúp Then thăng, hoá, xuất, nhập trên đường (tàng) đi. Nếu như hầu đồng của người Việt là hiện tượng nhập hồn thì hành trạng Then Tày biến đổi theo hướng ngược lại, nghĩa là thoát hồn. X.A Tôcarev cho rằng có hai hình thức giao tiếp với thần linh:…hoặc thần linh nhập vào người thầy pháp (hay vào trống của thầy), hoặc ngược lại, hồn thầy pháp chu du lên xứ  sở thần linh…[11,tr.330]. Quá trình thoát xác xảy ra lúc Then ngồi bỗng rùng mình mấy cái, tay cầm chùm xóc nhạc rung rung rồi rơi vào trạng thái estasy- ảo giác ngây ngất.
Cùng với đàn tính, chùm xóc nhạc thì hát Then là môi trường để Then múa các động tác khi thoát hồn. Trên toàn bộ 5 tỉnh Việt Bắc mỗi vùng đều sử dụng hệ thống làn điệu riêng:
- Lạng Sơn: Giải hạn, Cáp tơ hồng, Tiển cổm, Pây sử.
- Cao Bằng: Pây Sử, Kỳ Yên, Cái cấu cầu Bjoóc, Hỉn ẻn.
- Bắc Kạn: kẻn Bjoóc, Khảm hải, Kỳ yên, Cái cấu cầu hoa, Hỉn ẻn, Bách điểu.
- Tuyên Quang: Lẩu luông.
- Hà Giang: toàn bộ các làn điệu trong Lẩu Then.
Hệ thống làn điệu này không cố định, phần lớn tuỳ theo ông bà Then sử dụng vào trình tự cuộc lễ, ví dụ như ở Thất Khê- Lạng Sơn ngoài các làn điệu trên còn có: điệu Cống sử dùng trong lễ cúng trẻ em, Tò mạy ở lễ giải hạn, Suôi lừa hát khi Then làm động tác chèo thuyền, Khẩu tu vùa lúc Then đến cung Ngọc Hoàng…ngoài ra còn chia làn điệu làm 2 kiểu:
- Tàng bốc: đi đường trên cạn.
- Tàng nặm: đi đường dưới nước.
Cũng giống như dân ca của nhiều tộc người trên đất nước Việt Nam, phương thức truyền khẩu, tự ứng tác trong hát Then là hiện tượng phổ biến. Mỗi Then đều xây dựng motif- Âm hình giai điệu riêng ngay từ khi bắt đầu bước vào hành nghề, dần dần Then tiếp thu nhiều làn điệu khác nhau mang âm hưởng dân ca nơi Then sống. Điển hình như điệu lượn Then có gốc giai điệu từ lượn cọi- lối hát giao duyên nam nữ tỏ tình.
Cách hát trong Then phần lớn là hát nói (hoặc nói như hát) mang tính tự sự, kể chuyện, mô tả trên nền nhịp điệu không ổn định về tiết tấu. Đây cũng là đặc điểm khu biệt giữa Then Tày và hầu đồng Việt, nguyên do nguồn âm điệu dân ca Tày hiếm gặp cấu trúc giai điệu dí dỏm, nghịch ngợm, tốc độ nhanh, hoạt, rộn rã. Hoàng Tuấn[8] phân định hát Then làm ba dạng dựa theo tính chất biểu hiện của giai điệu:
- Loại cầu khẩn niệm chú.
- Loại giãi bày tâm sự.
- Loại kể lể, mô tả.    
Từ phân loại trên cho thấy hát Then mang đặc tính cầu khẩn, giãi bày, kể lể tạo nên kiểu hành lễ trong màu sắc tối. Thời điểm diễn ra nghi lễ Then chủ yếu trong đêm tối, như vậy Then diễn xướng trong một không gian tối, tất cả đều mang lại cảm giác hư hư thực thực, mờ ảo gợi lên vẻ huyền bí, âm u. Nếu vào ban ngày thì Then thoát hồn trong nhà, tại những nơi ít ánh sáng chiếu vào.
Cây đàn cùng với hát Then là Tính tẩu, một sáng tạo đặc sắc của người Tày lấy chất liệu sẵn có từ môi trường thiên nhiên. Xung quanh sự ra đời cây đàn Tính nhiều huyền thoại, truyền thuyết được thêu dệt, lưu truyền trong dân gian. Tính là âm tượng thanh tính, tình, tang đặt tên cho cây đàn, tẩu nghĩa là quả Bầu chỉ rõ bầu đàn làm từ quả Bầu. Những câu chuyện về sự ra đời đàn Tính lưu truyền khắp mọi nơi trong cộng đồng người Tày như: Pụt Luông- Bụt lớn sai con gái dạy cho loài người biết lượn, làm đàn Tính. Chuyện ông Bế Văn Phụng[9] chế tác đàn Tính phục vụ nhà Mạc trên Cao Bằng. Chuyện về chàng Xiên Câm, người lấy lá cây Dâu từ trên trời về nuôi tằm, xe sợi tạo dây đàn, trồng cây Bầu lấy quả Bầu chế thành bầu đàn, cán đàn sừng đàn làm từ cây khảo hương và cây lý, những loài cây có hương thơm mọc khắp nơi, ra hoa đẹp nở suốt bốn mùa. Các truyền thuyết trên là niềm tự hào của người Tày. 
Dây đàn Tính truyền thống trước đây dùng tơ tằm xe lại, sau đó lấy sáp ong hoặc nhựa củ nâu chuốt đi chuốt lại nhiều lần giúp dây bền và không rè, hiện nay được thay thế bằng dây nilông. Đàn Tính 2 dây lên dây theo hai kiểu quãng: 4 đúng (rê- sol), 5 đúng (đô- sol), nhiều vùng như Bắc Kạn, Lạng Sơn đàn Tính lên dây thấp hơn 1 cung: đô- fa. Còn đàn 3 dây cách mắc khá đặc biệt: giữa dây dưới- rê và dây trên- sol, dây giữa có cao độ thấp hơn một quãng 8 đúng so với dây trên (rê- sòl- sol), hiệu quả tạo nên âm trầm trì tục khi 3 dây cùng vang lên. Tiếng đàn Tính gọn gàng, ấm áp, hơi đục do hộp cộng hưởng vỏ quả Bàu có mấy lỗ thoát hơi nhỏ đằng sau. Về kỹ thuật diễn tấu, người Tày gảy chủ yếu bằng ngón trỏ, các ngón giữa và áp út chỉ có những người đạt tới trình độ tương đối điêu luyện mới sử dụng. Đàn Tính là loại nhạc cụ của nghi lễ cầu cúng do đó ngày trước ít xuất hiện trong sinh hoạt hát dân ca.
Đồng hành với hát Then, đàn Tính là chùm xóc nhạc- Miạc gồm nhiều quả nhạc nhỏ ghép lại, nối với nhau bằng các vòng tròn bằng sắt hoặc bằng đồng. Xét nguồn gốc ra đời, Hoàng Tuấn[8] đưa ý kiến rất đáng chú ý, Miạc xuất hiện gắn liền với động tác nhảy múa thời nguyên thuỷ, xuất xứ ban đầu là các chùm quả khô bên trong có hạt nhỏ đeo xung quanh người, trải theo thời gian dần biến đổi thành chùm xóc nhạc như ngày nay. Trong nghi lễ hát Then, chùm xóc nhạc tượng trưng cho những chiếc vòng lục lạc trên cổ ngựa, khi chạy phát ra âm thanh nghe réo rắt, do đó Miạc có tên khác là Xáu mạ, nghĩa đen là nhạc ngựa. Nghề Then coi chùm xóc nhạc như con ngựa thiêng được ông bà Then cưỡi dẫn đoàn quan quân lên thiên giới. Giọng hát, đàn Tính, chùm xóc nhạc vang lên tạo thành tổ hợp âm sắc gây ấn tượng đặc biệt, người Tày tin rằng đó là sự tổng hoà các thứ tiếng có trong trời đất qua mối quan hệ biểu tượng: thiên- địa- nhân. Đàn Tính do tiên trời ban cho, chùm xóc nhạc như đoàn âm binh dưới đất, và giọng hát đại diện cho người cùng muôn loài trên dương gian. Về âm nhạc, Miạc luôn tạo nên các nhóm tiết tấu khác nhau, dẫn dắt tiếng đàn điệu hát nhịp nhàng, ổn định, sự kết hợp không cố định giữa các quả nhạc xóc khi rung, lắc tạo âm thanh đa chiều, có màu sắc riêng không lẫn lộn với bất cứ nhạc cụ tự thân vang nào khác.
Cùng với âm nhạc (đàn Tính, chùm xóc nhạc, giọng hát) không thể không nhắc tới trang phục Then, nổi trội và đặc trưng nhất trong nghi lễ cấp sắc Lẩu Then. Màu sắc quần áo then mặc chủ yếu dùng các gam màu nguyên tông như: đỏ, vàng, tím, trắng, chàm, khác hẳn với kiểu phối màu của hầu đồng người Việt. Mỗi màu Then mặc đều ứng với từng vị thần linh, do đó trong một buổi lễ Then phải thay đổi y phục nhiều lần, đây là ước định giúp Then phô diễn hết khả năng trong mỗi hình thức nghi lễ nhất định. Tính thuần nhất về màu phân biệt rõ ràng giữa Then và người bình thường trong ăn mặc sinh hoạt hàng ngày. Lễ phục Then mặc kết hợp với không gian nghi lễ đã hình thành nên một sân khấu dân gian rực rỡ sắc màu, ở đó Then đóng vai chính toàn bộ buổi biểu diễn. Sự sắp đặt trình tự lễ theo quy trình thời gian được Then chuẩn bị chu đáo. Đó chính là những nghệ nhân trình diễn nghệ thuật dân gian đặc sắc, sản phẩm kết tinh từ văn hoá Tày kế thừa toàn bộ di sản truyền thống, tự thân phát triển tới trình độ ngày càng hoàn thiện hơn. Trải qua thời gian, những nghệ nhân Then đã phát huy tối ưu kinh nghiệm, hiểu biết nghề Then, được cộng đồng chấp nhận như người ưu tú, tiêu biểu cho phức hệ tín ngưỡng Tày.
5. Tạm dừng nội dung- thay cho lời kết
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Then Tày, đặc biệt trong lĩnh vực văn hoá dân gian, dân tộc học, ngữ văn. Nhưng về âm nhạc học nói chung và âm nhạc tộc người nói riêng từ trước đến nay không nhiều, có thể nêu một số nhà nghiên cứu tiêu biểu: GS.TSKH Tô Ngọc Thanh, PGS.TS Thuỵ Loan, nhạc sĩ Hoàng Tuấn, nhạc sĩ Nông Thị Nhình…tất cả đều xuất phát từ nhận thức độc lập, say mê với làn điệu dân ca vùng, miền. Tác giả viết bài này chỉ mong muốn tìm tòi, suy ngẫm những thành quả đã đạt được của nhiều người đi trước. Bởi âm nhạc tộc người ở Việt Nam vẫn là mảnh đất luôn thu hút nhiều sự quan tâm hơn, cần nghiên cứu sâu và có hệ thống.
Then Tày ẩn chứa đa phức thể nguyên hợp, định dạng nghiên cứu Then từ nhiều lĩnh vực khác nhau góp phần giải mã hiện tượng Then, hình thái văn hoá- tín ngưỡng- nghệ thuật tiêu biểu của người Tày, từ đó góp phần sáng tỏ các phương thức diễn xướng dân gian của nhiều tộc người khác trên đất nước Việt Nam.

 Trần Hoàng Tiến
1. Sơ lược nguồn gốc và tộc danh Tày
Theo số liệu công bố năm 1999, tổng số dân Tày là 1.447.514 người, đứng vị trí thứ hai sau người Kinh, sống tập trung ở vùng Việt Bắc, chủ yếu tại Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên, Lạng Sơn.

Về nguồn gốc, Tày (và Nùng) thuộc khối cư dân Bắc Việt cư trú lâu đời trên khu vực nam Trung Quốc và bắc Việt Nam. Quá trình cùng chung sống lâu dài đã chịu nhiều ảnh hưởng văn hoá Việt trở thành người Tày (Việt Nam) và văn hoá Hán thành người Choang Đồng (Trung Quốc). Ở Quảng Tây hiện nay vẫn tồn tại các nhóm Choang Đồng với các tên: Pò Choang, Pò Đề Di, Pò Nồng, Pò Tày[3].
Tộc danh Tày bắt nguồn từ cách nêu đặc điểm của nhóm người chuyên nghề cày ruộng, làm lúa nước, nông cụ tiêu biểu là chiếc cày. Trong tiếng Tày- Thái cổ cày gọi là Mạc Thay hay Thây rồi biến âm thành Tày và Thái[2, tr.46], bằng dụng ý rõ ràng hơn khi người Tày được gọi là Cần Nà- Người cày ruộng. Người Tày nói chung đều tự nhận là Cần Tày, tuỳ theo từng nơi có tên Tày bốc- Tày cạn sống vùng núi và Tày nặm- Tày nước làm bản dựng nhà dưới thung lũng nhiều sông suối. Từ thế kỷ XV để phân biệt với Thổ quan từ dưới xuôi lên cai trị, người Tày còn có tên là Thổ với hàm nghĩa thổ địa ám chỉ nhóm người đã sinh sống lâu đời nơi đây.


Như vậy người Tày cổ (Âu Việt) đã dung hợp với nhóm Việt Mường cổ (Lạc Việt) ngay từ buổi đầu dựng nước, góp phần quan trọng hình thành nên dân tộc Việt Nam.

2. Văn hoá tín ngưỡng dân gian Tày
Sơ đồ chỉ hướng:
Trong tam giáo, ảnh hưởng của đạo giáo nổi trội hơn, đạo giáo còn gọi là Lão giáo do Lão Tử sáng lập trước công nguyên hàng trăm năm, tuy vậy về sau chỉ có đạo giáo của Trương Đạo Lăng[2] phổ biến trong tín ngưỡng dân gian Tày, tính chất mang nhiều yếu tố shaman như: tu tiên, luyện đan, đồng cốt, ma thuật phù thuỷ, chiêm tinh, bói toán.
Như vậy, tín ngưỡng người Tày bắt nguồn từ thủa xa xưa, khởi sinh từ ý thức bảo vệ cộng đồng thị tộc, đây là lớp tảng nền sơ khai thứ nhất. Trải qua thời gian, tín ngưỡng bản địa Tày chịu sự tác động của người Việt khi hai tộc người Âu Việt và Lạc Việt cùng nhau liên thủ, đây là lớp văn hoá thứ hai, tuy vậy do tương đồng nên giữa Âu Việt và Lạc Việt luôn có sự gắn bó chặt chẽ. Sự xuất hiện tam giáo du nhập vào là lớp thứ ba đã biến đổi tín ngưỡng Tày sang dạng thức như ngày nay.
GS.TS Ngô Đức Thịnh nhận xét:…kết quả của sự hỗn dung, pha tạp giữa tín ngưỡng bản địa và tam giáo (Phật- Đạo- Nho) đã hình thành và tồn tại một số tín ngưỡng đặc thù: Then, Tạo, Pụt, Mo với tư cách là thày cúng Then, Tào, Pụt, Mo tham gia vào hầu hết các nghi lễ của tín ngưỡng người Tày, Nùng, từ thờ cúng tổ tiên trong gia đình tới các hình thức thờ thổ thần, thành hoàng của cộng đồng  [6, tr.5].


3. Hiện tượng shaman trong Then Tày
Bản chất Then là gì? Nguồn gốc như thế nào? Những biểu hiện của then trong tín ngưỡng người Tày ra sao? Trong nội dung này sẽ xem xét và giải mã hiện tượng Then.
 Có một số giả thuyết quá trình xuất hiện Then trong đời sống tâm linh của người Tày, dựa trên tư liệu dân gian, truyền thuyết từ nhiều vùng khác nhau, đặc biệt là của các tác giả ở Cao Bằng như Hoa Cương, Dương Sách, Triều Ân đều cho rằng Then chính thức ra đời khi nhà Mạc bị thất sủng chạy trốn lên Cao Bằng cát cứ (thế kỷ XVI, XVII)[9]. Đây là sự kiện lịch sử có thật, phản ánh giai đoạn văn hoá Việt- Tày đan cài tại Cao Bằng, để lại đến ngày nay trong Then nhiều trường đoạn hát bằng tiếng Kinh.
Hoàng Tuấn cho rằng: đại bộ phận các ông bà then cắt nghĩa then là tiên, là môn tiên, là trời [8,tr.88], cách giải nghĩa mở rộng hơn dưới góc độ dân tộc học với quan niệm Then là một từ cổ trong vốn từ ngữ Tày- Thái, gốc ban đầu có chung một nghĩa[8]. GS.TS Ngô Đức Thịnh[6] và PGS Vũ Ngọc Khánh[3] cùng chung quan niệm: Then có nghĩa là tiên, cũng như Pụt nghĩa là phật.
Như vậy, Then được hiểu là người cõi trời, giữ mối liên hệ giữa người trần gian với Ngọc Hoàng Thượng Đế trên trời, nhưng cách giải thích trên chưa tầm nguyên đầy đủ về Then. TS Nguyễn Thị Yên[10] tìm cách giải mã lớp tiền tố Then, và nêu rõ các hình thức nhập đồng tồn đọng yếu tố shaman giáo trong các trò chơi của trẻ em, chủ yếu là những nàng tiên/ linh hồn như: nàng Trứng, nàng Cám, nàng Sọt, nàng Hương mang đậm tín ngưỡng bản địa nguyên thuỷ. Đây là tín ngưỡng sliên (tiên)- yếu tố tiền then, chữ sliên- tiên vay mượn từ chữ Hán, về sau dùng để chỉ hình thức cúng bái bản địa liên quan đến sự nhập đồng của then nữ.
Để trở thành ông Then hay bà Then, người Tày cho rằng do căn số, ma then nhập vào. GS.TS Ngô Đức Thịnh[6] nêu hai trường hợp trở thành Then: a) có căn then (mỉng bang) và b) gia đình, dòng dõi có người làm Then (tẩn then). Trong cuộc đời làm Then, ông Then hay bà Then trải qua nhiều lần thăng cấp (tâng) qua lễ lẩu Then, cấp Then biểu hiện ở số lượng dải mũ, tương đương với số quân mà Then cai quản. Như vậy Then là người đặc biệt trong cộng đồng Tày, có khả năng thông quan với thần linh, khi Then thăng cũng có nghĩa Then đã tiếp cận với thế giới siêu nhiên, đồng thời nhập vào mọi đối tượng phi để bắc cầu giao tiếp với người trần gian. Về hình thức và nội dung Then giống như hầu đồng của người Việt, GS.TS Võ Quang Trọng nhận xét: 'hầu đồng của người Việt và then của người Tày là hiện tượng con người tự thôi miên để đưa mình vào trạng thái ảo giác đặc biệt'[7, tr.44].
Trong nhiều công trình, các nhà nghiên cứu tín ngưỡng tộc người đều nhắc đến shaman như một dạng ảo giác đặc biệt và trạng thái ngây ngất- estasy. Đối với Then: shaman là hiện tượng biến hoá tư duy, tinh thần con người từ trạng thái này sang trạng thái khác theo cách hiểu xuất thần nhập thần, vậy shaman là gì?
Thuật ngữ shaman- thày pháp xuất hiện lần đầu tiên trong một số tài liệu ở Nga vào thế kỷ XVII, nguồn gốc từ tiếng Evenk (saman) của bộ lạc Tungus chuyên sống bằng nghề chăn nuôi tuần lộc ở Xibiri, biến đổi từ chữ  samana- tiếng Pali (hệ tiếng sancrit) được các nhà Phương Đông học chấp nhận vào thế kỷ XIX[11]. Gần một thế kỷ sau, thuật ngữ shaman giáo- shamanism trở nên thông dụng, xuất hiện trong nhiều công trình nghiên cứu Âu, Mỹ. Ở Trung Quốc, hiện tượng shaman có nhiều tên gọi, tên chung là Vu thuật, người hành nghề shaman là Vu sư. Tuy vậy tùy từng nơi gọi là thỉnh thần phụ thể, thần linh phụ thể, quỷ thần phụ thể, nhưng dịch sang tiếng Việt nhiều nhất là từ giáng thần phụ thể, nghĩa là cầu thần nhập xác. Tại Đông Nam Á, shaman là hình thức tôn giáo sơ khai tự thân hình thành trong các cuộc hành lễ hiến sinh nguyên thuỷ, được cộng đồng đón nhận như một dạng người đặc biệt, có khả năng phi thường, có bí quyết và sức mạnh ma thuật.
Tuy vậy, thời điểm xuất hiện shaman còn có nhiều ý kiến khác nhau. Theo trường phái lịch sử[12] shaman ra đời vào giai đoạn phân rã công xã thị tộc nguyên thuỷ kèm theo sự phân công địa vị một số người. Trường phái dân tộc học Trung Quốc cho rằng shaman tồn tại thời trung kỳ xã hội thị tộc mẫu hệ, lúc này vai trò người phụ nữ có quyền năng rất lớn. Với trường phái sinh học phát triển, shaman là hiện tượng của người mắc bệnh cuồng itteri, một loại bệnh thần kinh, nói cách khác tất cả các thày shaman đều biểu hiện bệnh thần kinh dạng phân tâm học được Freud phát hiện đầu thế kỷ XX. Khi hành nghề, các thầy shaman (cả nam lẫn nữ) bị kích động toàn thân, thực hiện những hành động đặc biệt lúc bình thường ít người làm được như: đi trên than nóng, đoán định tương lai, thần nhập, nói bằng ngôn ngữ chưa bao giờ học, hát múa suốt ngày…thực tế shaman là hiện tượng tồn tại trong hầu hết tất cả các tộc người trên thế giới.
GS.TSKH Tô Ngọc Thanh nêu bản chất shanman là tạo nên yếu tố thiêng phát xuất khi tiến hành nghi lễ (trong then Tày và hầu đồng Việt), từ đó lan toả khắp xung quanh, khiến mọi đối tượng tham gia đều chịu ảnh hưởng. Điều kiện để thiêng hình thành là âm nhạc, múa, do đó Then không thể thiếu hai loại hình nghệ thuật này cùng tham gia. TS Nguyễn Thị Hiền[1] khi tiến hành khảo sát thực tế nghề làm Then tại một số địa bàn người Tày cho biết hầu hết sau lễ cúng, các ông Then, bà Then đều không nhớ lại được hành động, ngôn ngữ khi rơi vào trạng thái xuất thần lúc hành lễ.


4. Các thành tố diễn xướng trong nghệ thuật Then
Phương tiện hành nghề Then gồm:
- Quả trứng, chim én: là vật thiêng đóng vai trò dẫn hồn Then.
- Bằng sắc và ấn của Ngọc Hoàng cấp để Then vào các cửa thần linh.
- Quạt phép (quạt trời): giúp Then tạo nhiều động tác biến hoá như bay bổng trên mây, xuống âm phủ, đi dưới nước.
- Gương dùng trừ tà, soi sáng đường Then đi.
- Đàn Tính: nguồn khải lực để Then thoát hồn, thông quan với các loại thần linh.
- Chùm xóc nhạc- Miạc: lực lượng âm binh để Then sai khiến.
Những đồ vật biểu trưng linh giáo như: trứng, chim én, gương, quạt qua tay Then đầy tính ma thuật dưới dạng phù thuỷ. Nhưng nổi trội và tạo nên giá trị thu hút toàn thể cộng đồng là nghệ thuật Then- nhân lõi cốt yếu xuyên suốt quá trình xuất, nhập thần. Nhiều nhà nghiên cứu đồng nhất ý kiến: Then Tày là hiện tượng văn hoá dân gian tổng thể có tính nguyên hợp (syncretic), là hình thức nghi lễ diễn xướng nghệ thuật tổng hợp gồm có hát, nhạc, múa, trang phục [7,tr.44], hoặc then là một nghi lễ tôn giáo được diễn xướng bằng hình thức hát, hát kể có kèm theo nhạc và nhảy múa, ngoài ra còn có những biểu tượng tôn giáo mang tính tượng trưng và nhiều yếu tố sân khấu dân gian[1,tr.74]. PGS.TS Nguyễn Thuỵ Loan tham chiếu các hệ thống tín ngưỡng tộc người ở Việt Nam đã khái quát:…tín ngưỡng tôn giáo là một trong những môi trường quan trọng cho sự sáng tạo và nảy sinh âm nhạc…[4,tr.65].
Như vậy, diễn xướng nhạc- hát- múa là động cơ bên trong nảy sinh không gian thiêng, giúp Then thăng, hoá, xuất, nhập trên đường (tàng) đi. Nếu như hầu đồng của người Việt là hiện tượng nhập hồn thì hành trạng Then Tày biến đổi theo hướng ngược lại, nghĩa là thoát hồn. X.A Tôcarev cho rằng có hai hình thức giao tiếp với thần linh:…hoặc thần linh nhập vào người thầy pháp (hay vào trống của thầy), hoặc ngược lại, hồn thầy pháp chu du lên xứ  sở thần linh…[11,tr.330]. Quá trình thoát xác xảy ra lúc Then ngồi bỗng rùng mình mấy cái, tay cầm chùm xóc nhạc rung rung rồi rơi vào trạng thái estasy- ảo giác ngây ngất.
Cùng với đàn tính, chùm xóc nhạc thì hát Then là môi trường để Then múa các động tác khi thoát hồn. Trên toàn bộ 5 tỉnh Việt Bắc mỗi vùng đều sử dụng hệ thống làn điệu riêng:
- Lạng Sơn: Giải hạn, Cáp tơ hồng, Tiển cổm, Pây sử.
- Cao Bằng: Pây Sử, Kỳ Yên, Cái cấu cầu Bjoóc, Hỉn ẻn.
- Bắc Kạn: kẻn Bjoóc, Khảm hải, Kỳ yên, Cái cấu cầu hoa, Hỉn ẻn, Bách điểu.
- Tuyên Quang: Lẩu luông.
- Hà Giang: toàn bộ các làn điệu trong Lẩu Then.
Hệ thống làn điệu này không cố định, phần lớn tuỳ theo ông bà Then sử dụng vào trình tự cuộc lễ, ví dụ như ở Thất Khê- Lạng Sơn ngoài các làn điệu trên còn có: điệu Cống sử dùng trong lễ cúng trẻ em, Tò mạy ở lễ giải hạn, Suôi lừa hát khi Then làm động tác chèo thuyền, Khẩu tu vùa lúc Then đến cung Ngọc Hoàng…ngoài ra còn chia làn điệu làm 2 kiểu:
- Tàng bốc: đi đường trên cạn.
- Tàng nặm: đi đường dưới nước.
Cũng giống như dân ca của nhiều tộc người trên đất nước Việt Nam, phương thức truyền khẩu, tự ứng tác trong hát Then là hiện tượng phổ biến. Mỗi Then đều xây dựng motif- Âm hình giai điệu riêng ngay từ khi bắt đầu bước vào hành nghề, dần dần Then tiếp thu nhiều làn điệu khác nhau mang âm hưởng dân ca nơi Then sống. Điển hình như điệu lượn Then có gốc giai điệu từ lượn cọi- lối hát giao duyên nam nữ tỏ tình.
Cách hát trong Then phần lớn là hát nói (hoặc nói như hát) mang tính tự sự, kể chuyện, mô tả trên nền nhịp điệu không ổn định về tiết tấu. Đây cũng là đặc điểm khu biệt giữa Then Tày và hầu đồng Việt, nguyên do nguồn âm điệu dân ca Tày hiếm gặp cấu trúc giai điệu dí dỏm, nghịch ngợm, tốc độ nhanh, hoạt, rộn rã. Hoàng Tuấn[8] phân định hát Then làm ba dạng dựa theo tính chất biểu hiện của giai điệu:
- Loại cầu khẩn niệm chú.
- Loại giãi bày tâm sự.
- Loại kể lể, mô tả.    
Từ phân loại trên cho thấy hát Then mang đặc tính cầu khẩn, giãi bày, kể lể tạo nên kiểu hành lễ trong màu sắc tối. Thời điểm diễn ra nghi lễ Then chủ yếu trong đêm tối, như vậy Then diễn xướng trong một không gian tối, tất cả đều mang lại cảm giác hư hư thực thực, mờ ảo gợi lên vẻ huyền bí, âm u. Nếu vào ban ngày thì Then thoát hồn trong nhà, tại những nơi ít ánh sáng chiếu vào.
Cây đàn cùng với hát Then là Tính tẩu, một sáng tạo đặc sắc của người Tày lấy chất liệu sẵn có từ môi trường thiên nhiên. Xung quanh sự ra đời cây đàn Tính nhiều huyền thoại, truyền thuyết được thêu dệt, lưu truyền trong dân gian. Tính là âm tượng thanh tính, tình, tang đặt tên cho cây đàn, tẩu nghĩa là quả Bầu chỉ rõ bầu đàn làm từ quả Bầu. Những câu chuyện về sự ra đời đàn Tính lưu truyền khắp mọi nơi trong cộng đồng người Tày như: Pụt Luông- Bụt lớn sai con gái dạy cho loài người biết lượn, làm đàn Tính. Chuyện ông Bế Văn Phụng[9] chế tác đàn Tính phục vụ nhà Mạc trên Cao Bằng. Chuyện về chàng Xiên Câm, người lấy lá cây Dâu từ trên trời về nuôi tằm, xe sợi tạo dây đàn, trồng cây Bầu lấy quả Bầu chế thành bầu đàn, cán đàn sừng đàn làm từ cây khảo hương và cây lý, những loài cây có hương thơm mọc khắp nơi, ra hoa đẹp nở suốt bốn mùa. Các truyền thuyết trên là niềm tự hào của người Tày. 
Dây đàn Tính truyền thống trước đây dùng tơ tằm xe lại, sau đó lấy sáp ong hoặc nhựa củ nâu chuốt đi chuốt lại nhiều lần giúp dây bền và không rè, hiện nay được thay thế bằng dây nilông. Đàn Tính 2 dây lên dây theo hai kiểu quãng: 4 đúng (rê- sol), 5 đúng (đô- sol), nhiều vùng như Bắc Kạn, Lạng Sơn đàn Tính lên dây thấp hơn 1 cung: đô- fa. Còn đàn 3 dây cách mắc khá đặc biệt: giữa dây dưới- rê và dây trên- sol, dây giữa có cao độ thấp hơn một quãng 8 đúng so với dây trên (rê- sòl- sol), hiệu quả tạo nên âm trầm trì tục khi 3 dây cùng vang lên. Tiếng đàn Tính gọn gàng, ấm áp, hơi đục do hộp cộng hưởng vỏ quả Bàu có mấy lỗ thoát hơi nhỏ đằng sau. Về kỹ thuật diễn tấu, người Tày gảy chủ yếu bằng ngón trỏ, các ngón giữa và áp út chỉ có những người đạt tới trình độ tương đối điêu luyện mới sử dụng. Đàn Tính là loại nhạc cụ của nghi lễ cầu cúng do đó ngày trước ít xuất hiện trong sinh hoạt hát dân ca.
Đồng hành với hát Then, đàn Tính là chùm xóc nhạc- Miạc gồm nhiều quả nhạc nhỏ ghép lại, nối với nhau bằng các vòng tròn bằng sắt hoặc bằng đồng. Xét nguồn gốc ra đời, Hoàng Tuấn[8] đưa ý kiến rất đáng chú ý, Miạc xuất hiện gắn liền với động tác nhảy múa thời nguyên thuỷ, xuất xứ ban đầu là các chùm quả khô bên trong có hạt nhỏ đeo xung quanh người, trải theo thời gian dần biến đổi thành chùm xóc nhạc như ngày nay. Trong nghi lễ hát Then, chùm xóc nhạc tượng trưng cho những chiếc vòng lục lạc trên cổ ngựa, khi chạy phát ra âm thanh nghe réo rắt, do đó Miạc có tên khác là Xáu mạ, nghĩa đen là nhạc ngựa. Nghề Then coi chùm xóc nhạc như con ngựa thiêng được ông bà Then cưỡi dẫn đoàn quan quân lên thiên giới. Giọng hát, đàn Tính, chùm xóc nhạc vang lên tạo thành tổ hợp âm sắc gây ấn tượng đặc biệt, người Tày tin rằng đó là sự tổng hoà các thứ tiếng có trong trời đất qua mối quan hệ biểu tượng: thiên- địa- nhân. Đàn Tính do tiên trời ban cho, chùm xóc nhạc như đoàn âm binh dưới đất, và giọng hát đại diện cho người cùng muôn loài trên dương gian. Về âm nhạc, Miạc luôn tạo nên các nhóm tiết tấu khác nhau, dẫn dắt tiếng đàn điệu hát nhịp nhàng, ổn định, sự kết hợp không cố định giữa các quả nhạc xóc khi rung, lắc tạo âm thanh đa chiều, có màu sắc riêng không lẫn lộn với bất cứ nhạc cụ tự thân vang nào khác.
Cùng với âm nhạc (đàn Tính, chùm xóc nhạc, giọng hát) không thể không nhắc tới trang phục Then, nổi trội và đặc trưng nhất trong nghi lễ cấp sắc Lẩu Then. Màu sắc quần áo then mặc chủ yếu dùng các gam màu nguyên tông như: đỏ, vàng, tím, trắng, chàm, khác hẳn với kiểu phối màu của hầu đồng người Việt. Mỗi màu Then mặc đều ứng với từng vị thần linh, do đó trong một buổi lễ Then phải thay đổi y phục nhiều lần, đây là ước định giúp Then phô diễn hết khả năng trong mỗi hình thức nghi lễ nhất định. Tính thuần nhất về màu phân biệt rõ ràng giữa Then và người bình thường trong ăn mặc sinh hoạt hàng ngày. Lễ phục Then mặc kết hợp với không gian nghi lễ đã hình thành nên một sân khấu dân gian rực rỡ sắc màu, ở đó Then đóng vai chính toàn bộ buổi biểu diễn. Sự sắp đặt trình tự lễ theo quy trình thời gian được Then chuẩn bị chu đáo. Đó chính là những nghệ nhân trình diễn nghệ thuật dân gian đặc sắc, sản phẩm kết tinh từ văn hoá Tày kế thừa toàn bộ di sản truyền thống, tự thân phát triển tới trình độ ngày càng hoàn thiện hơn. Trải qua thời gian, những nghệ nhân Then đã phát huy tối ưu kinh nghiệm, hiểu biết nghề Then, được cộng đồng chấp nhận như người ưu tú, tiêu biểu cho phức hệ tín ngưỡng Tày.
5. Tạm dừng nội dung- thay cho lời kết
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Then Tày, đặc biệt trong lĩnh vực văn hoá dân gian, dân tộc học, ngữ văn. Nhưng về âm nhạc học nói chung và âm nhạc tộc người nói riêng từ trước đến nay không nhiều, có thể nêu một số nhà nghiên cứu tiêu biểu: GS.TSKH Tô Ngọc Thanh, PGS.TS Thuỵ Loan, nhạc sĩ Hoàng Tuấn, nhạc sĩ Nông Thị Nhình…tất cả đều xuất phát từ nhận thức độc lập, say mê với làn điệu dân ca vùng, miền. Tác giả viết bài này chỉ mong muốn tìm tòi, suy ngẫm những thành quả đã đạt được của nhiều người đi trước. Bởi âm nhạc tộc người ở Việt Nam vẫn là mảnh đất luôn thu hút nhiều sự quan tâm hơn, cần nghiên cứu sâu và có hệ thống.
Then Tày ẩn chứa đa phức thể nguyên hợp, định dạng nghiên cứu Then từ nhiều lĩnh vực khác nhau góp phần giải mã hiện tượng Then, hình thái văn hoá- tín ngưỡng- nghệ thuật tiêu biểu của người Tày, từ đó góp phần sáng tỏ các phương thức diễn xướng dân gian của nhiều tộc người khác trên đất nước Việt Nam.

 Trần Hoàng Tiến

Lễ báo hiếu của người Tày ở Cao Bằng (Vũ Diệu Trung)

Các tài liệu khảo cổ ở vùng Nà Goọc (Nguyên Bình), Tôôm Đeng (Hà Quảng), Kẻ Ngoã (Hoà An)... cho thấy người Tày đã cư trú lâu đời tại Cao Bằng, xen kẽ với nhiều dân tộc khác như Nùng, Dao, Mông... ở lòng hồ Nêôgen (nay là lòng máng sông Bằng), lưu vực sông Bắc Vọng, Vi Vọng, sông Quây Sơn, những cánh đồng rộng Cẩu Pung (Hoà An), Đào Ngạn (Hà Quảng) (1)...

Họ lấy việc trồng lúa nước làm nguồn sống chính, vì vậy, làng bản thường ở những địa điểm thuận lợi cho việc canh tác lúa nước. Ở đầu bản thường có con lạch hoặc mương nước chảy qua, tiếp đó là những vạt ruộng bằng phẳng hay những vạt ruộng vàn - ruộng bậc thang.

Cư dân Tày có đời sống tín ngưỡng tâm linh phong phú. Họ quan niệm cõi người đang sống là mường gần và cõi mà người chết sẽ đến là mường phi (nơi cư trú của linh hồn người chết, nơi cũng có nhà cửa ruộng vườn, có một cuộc sống tốt đẹp hơn...). Họ còn cho rằng, con người gồm hai phần: thể xác và hồn vía (khoăn), con trai có 7 khoăn, con gái có 9 khoăn. Có nhiều tập tục liên quan đến khoăn: khi ốm là lúc khoăn đi chơi hay bị lạc, thầy Tào phải làm lễ gọi khoăn về. Khi khoăn rời khỏi thân xác (khoăn pây) nghĩa là người đó đã chết, phải làm ma cho họ.

Thành ngữ người Tày có câu: Hết kin nhoòng mỏ mạ (Làm ăn nhờ mồ mả), vì thế, khi có người chết, gia đình cố gắng làm bằng được đám tang, còn gọi là Lễ báo hiếu. Gia đình nào không có điều kiện thì vẫn chôn người chết, nhưng những nghi lễ báo hiếu sẽ phải làm sau, khi có điều kiện. Lễ báo hiếu chính là lễ đưa linh hồn người chết lên trời sống cuộc đời nhàn nhã, có như vậy hồn người chết mới phù hộ cho con cháu.

Trong thủ tục làm đám, gia đình phải mời từ 1 đến 3 vị thầy Tào tiến hành những nghi thức tang lễ. Người chết quàn trong nhà khoảng từ 3, 5, 7 hoặc 9 ngày tùy theo quyết định của thầy Tào.
Một trong những nghi lễ đầu tiên là thủ tục nhập quan. Người ta chọn những cây gỗ tốt để làm áo quan, sau đó là lễ nhập quan. Khi đóng nắp, người ta lấy thóc nếp đốt thành tro đổ nước đun, quấy thành hồ trát kín áo quan.

Nhà táng làm 2 tầng, tầng trên để ở, tầng dưới là chỗ nuôi súc vật, mô phỏng kiểu nhà sàn cổ của người Tày. Trước khi phát tang, gia đình làm thủ tục che ban thờ tổ tiên. Áo quan để ngang gian chính, đầu đặt hướng Nam, phía trên có bát cơm quả trứng (hướng Nam là hướng đi xa, người mất phải dời xa những người đang sống). Cửa nhà táng đặt theo hướng nhà, bên trong là bài vị làm bằng giấy đỏ ghi họ tên, ngày sinh và ngày mất của người quá cố. Hai bên áo quan người ta làm cây hoa thiên lý, cây tiền, tượng trưng cho sự hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Cờ phan (cờ ma) được dựng phía đầu áo quan, tượng trưng cho vong hồn của người chết trong lúc tiến hành các nghi lễ.

Khi chọn được giờ tốt, thầy Tào cùng những người giúp việc chuẩn bị thủ tục làm ma cho người chết. Dân trong bản cùng đến giúp gia đình làm cơm cúng, làm mũ tang (ăn khuốt) cho tang chủ theo cách thức cổ truyền, biểu thị cho sự ghi nhớ công ơn của những người đang sống đối với người chết.

Tiếp đó là việc lập Đàn lễ. Tranh đạo kinh sư (3 vị Tam Thanh hay còn gọi là Tam Bảo) được treo lên, phía vách trái treo tranh vẽ Ngọc Hoàng và tuần tự, thầy Tào sẽ chuyển tin báo về người chết tới Ngọc Hoàng trong lễ trình báo. Đàn lễ gồm: Thượng đàn (điện Tam Bảo); Ban thờ thập điện (các vị thần trông coi việc cõi âm); Trung đàn (ban thờ tổ tiên thầy Tào); Bát hương của người chết và nơi để ấn tín của Ngọc Hoàng. Tang chủ cùng gia đình hành lễ và túc trực trước linh vị, trong khi đó thầy Tào trình báo tổ tiên và các thánh thần lý do làm lễ, xin chứng giám, giúp đưa hồn người chết lên trời. Tổ tiên ở đây chính là tổ tiên của vị thầy Tào, cùng với thầy thông thiên với các vị thánh thần.

Lễ tẩy uế bắt đầu với nghi thức thầy Tào dùng bát nước lá bưởi (thứ lá tinh khiết, mùi thơm át được tà ma và dùng để tẩy rửa đàn lễ thì khi hành lễ cho thanh tịnh) tẩy uế 5 phương. Thầy Tào khấn mời thần thánh uống trà, nhờ thơ lại đưa tin lên Ngọc Hoàng rằng: Tại bản Phya Đán xã Đào Ngạn huyện Hà Quảng tỉnh Cao Bằng có người chết, xin Ngọc Hoàng cấp giấy thông hành để người chết được lên trời với tổ tiên. Đứng sau thầy Tào bao giờ cũng là tang chủ. Thầy Tào, lúc này đã là hiện thân của Ngọc Hoàng, tay cầm tích trượng đồng ý cấp giấy thông hành cho người chết. Sau đó là lễ tụng kinh cứu khổ đổi đời cho người chết.

Lễ cầu xin nước tiến hành vào khoảng 12 giờ đêm sau khi người quá cố được cấp giấy thông hành. Trước đàn lễ thầy Tào khấn bài ca xin nước và cùng đoàn nhạc hiếu đến trước linh cữu chuẩn bị đi xin nước. Dụng cụ lấy nước gồm một thanh kiếm tre; một ống tre treo vào thanh kiếm; một ống tre buộc bó lúa, lược, tiền giấy (bông khẩu péc) dùng để dẫn đường. Khi hành lễ, thầy Tào mời linh hồn người chết theo bài vị và cành phan ra suối lấy nước. Đến bờ suối, tang chủ làm lễ dâng hương cho các thần cai quản nguồn nước. Thầy Tào hát kể mời 6 vị thần trông coi ngũ hành lên xơi trà, ăn cỗ và cầu xin nước; vái lạy 5 phương, lạy xong phương nào vứt về phương đó một tờ tiền. Tang chủ xuống bờ sông múc nước. Trong lúc đó, thầy Tào khấn bài Long Vương cấp nước thần. Lấy nước xong, bài vị và cành phan được rước về nhà, tang chủ cầm tấm vải trắng che đầu để hồn người chết không bị mưa, nắng, gió xâm phạm.

Người Tày quan niệm con người lúc sống ai cũng có tội nên khi chết hồn bị giam hãm dưới ngục tối (thủy phủ). Hồn rời khỏi thân xác thì ngay lập tức dưới địa phủ giam lại, có 9 vị thần canh giữ. Muốn cho người chết siêu thoát, người ta phải phá ngục, chuộc hồn lên làm lễ khai quang để người chết về trời.

Lễ phá ngục được tiến hành vào ban ngày. Ngục bao giờ cũng dựng trong khuôn viên nhà, phía trước là ban thờ với lễ vật thủ lợn, cỗ tạp để dâng cúng thần linh trong bản. Người ta còn cúng một con gà, một con vịt sống dùng đưa hồn vượt ngục về nhà.

Ngục quây vải đen là ngục dương; quây vải trắng là ngục âm; quanh ngục cắm 9 bài vị đặt ở 9 hướng; bài vị người chết đặt ở cửa ngục. Nếu người chết do tuổi già, đau ốm thì chỉ phá một ngục 9 lao tù; chết vì tai nạn thì phá thêm ngục nữa là thương ngục, chết do ngã vực núi thì phá thần núi ngục; chết vì nước thì phá thêm thủy phủ ngục; chết vì sấm sét phá thêm lôi vương ngục; phụ nữ chết do sinh nở phá thêm ngục huyết bồn.

Thầy Tào mời các thần về chứng giám, giúp phá ngục chuộc hồn về. Lễ tẩy uế được diễn ra nơi dựng ngục để chuẩn bị làm lễ phá ngục. Thầy Tào tụng kinh cứu khổ cho người chết. Tờ xá văn và cáo văn được để trên bát gạo đặt trước cửa ngục tù cầu xin xá tội cho người chết. Sau đó thầy Tào hát cầu thánh thần chuộc tội và thả hồn về.

Khi phá ngục thầy đi vòng quanh ngục theo chiều kim đồng hồ 3 vòng vừa đi vừa tụng kinh cứu khổ cho người chết để phá bỏ vòng ngoài. Khi vòng ngoài được giỡ bỏ, thầy cùng gia đình đi vòng quanh ngục, lấy chân giẫm các cột hương dựng vòng ngoài để chuẩn bị phá ngục Âm và ngục Dương.

Cửa ngục được phá với động tác thầy Tào dùng dao nhọn chặt tượng trưng cờ cắm ở đó. Phá trước tiên là cửa phương Đông đến phương Nam, phương Tây, phương Bắc, rồi Đông Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, cuối cùng là trung tâm ngục.

Tiếp theo thầy Tào tay trái cầm con vịt sống, tay phải làm bùa chú để giúp linh hồn người chết vượt biển từ ngục Âm lên ngục Dương. Thầy lại đi vòng quanh ngục và làm phép tẩy uế nơi ngục Âm vừa được phá, đồng thời gọi linh hồn về trú ngụ trên bài vị để lên ngục Dương.

Những nghi lễ phá ngục Dương lại được tiếp tục giống như phá ngục Âm. Sau cùng là lễ thu hồn người chết từ ngục Dương lên bài vị, và yểm bùa nơi dựng ngục.

Thầy Tào dẫn linh hồn người chết cùng gia quyến đi qua hai cổng chào Thái Sơn và Phong Đô, xin các thần trông coi thổ địa cho hồn được về nhà. Trước cổng chào để một cái mâm, trên có vài bộ quần áo, khăn mũ, giầy, tất, tiền bạc... khi hóa lửa nhìn lớp tro thấy xuất hiện hình dáng là gót chân người, chim, gà thì có nghĩa là hồn người chết về dưới lốt con vật này, là điềm tốt. Nếu là dấu chân ngựa, trâu thì không tốt, người chết không thể hóa kiếp làm người được nữa.

Trước khi đưa hồn người chết vào nhà, linh vị phải đi qua một chiếc cầu uốn cong như hình bụng người đàn bà chửa, sau đó mảnh vải thô dùng làm cầu được cuốn lên coi như hồn đã đi qua. Dưới cầu là hai bát nước màu trắng và đỏ được đổ ra (người Tày quan niệm đây là máu của người mẹ vừa sinh con, thủ tục này chỉ được tiến hành đối với người chết là đàn bà).

Linh hồn được rước vào nhà, lễ khai quang (mở sáng mắt cho người chết) bắt đầu. Với người Tày, người chết xuống cõi âm tối đen mịt mù, phải nhờ thánh Tam Bảo đốt đèn và đèn ở đây tượng trưng là bảy ánh mặt trời chiếu sáng chốn đen tối, giúp người chết nhìn thấy đường để lên trời.

Trong nhà làm lễ khai quang cho người chết thì ở ngoài sân làm lễ cúng các vị thần trong bản và cầu siêu, cho ma lang thang cùng hưởng cỗ nhà đám.

Chiều tối, sau lễ phá ngục, con cháu trong gia đình dâng lễ vật để báo hiếu công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Con trai là người nối dõi tông đường, đứng ra chịu tang chống gậy cõng hồn cha mẹ đến nơi an nghỉ cuối cùng và cùng với thầy Tào hoàn tất những thủ tục để họ có thể về với tổ tiên. Con gái dâng thủ lợn, vàng mã, tiền bạc để cha mẹ có đủ mọi thứ cần thiết đến mường phi.

Lễ nhiên đăng (đốt đèn) nhằm mở sáng đường cho hồn người chết. Bốn cây nến đặt ở 4 góc, một cây để ở giữa nắp áo quan rồi lần lượt được thắp sáng lên. Người ta đổ 3 bơ gạo vào nong, đặt trước vong linh, gạo được gạt phẳng, rồi dùng 4 thanh tre đặt thành vuông, sau đó 10 ngọn nến được thắp lên theo các phương: Đông, Nam, Tây, Bắc, Đông Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, Trung, Thượng, Hạ phương. Mười ngọn đèn tượng trưng cho mười ông vua đèn (thập vương đèn) có nhiệm vụ đưa linh hồn người chết lên trời.

Lễ nhiễu quan được bắt đầu với nghi thức thầy Tào cùng gia quyến đi quanh vong linh người chết than khóc. Thầy Tào cầm quyển kinh vừa đi vừa khấn, bò tiếp sau là tang chủ (cháu nối dòng của người quá cố) trên lưng buộc linh vị, con rể cầm cành phan, con gái gánh gạo, gánh gà vịt, sau cùng là những người thân trong gia đình. Họ vừa đi vừa nghe các bài ca Khởi linh nhiễu quan, Cứu khổ nhiễu quan, Thập nguyệt hoài thai (Bài này chỉ dùng cho trường hợp người mẹ mất), Thập biệt khoa và Giải hạn cho vong hồn người chết. Họ quan niệm, những người thân đi quanh vong linh người chết nhiều bao nhiêu thì hồn người chết sớm được siêu thoát bấy nhiêu và đây cũng thể hiện mức độ báo hiếu của con cháu đối với công ơn của cha mẹ.

Xưa người ta thường làm lễ giải oan cho người chết. Thầy Tào lấy 3 bơ gạo đổ vào nong và đặt vào chỗ gạo đó 36 ngọn cỏ gianh để trừ tà. Thầy Tào tay cầm cành phan vừa đi vừa xướng bài ca giải kết, theo sau là tang hiếu. Đến trước nong gạo, thầy cúi xuống cầm 3 ngọn cỏ và viết bùa chú. Đi hết mỗi vòng thầy ném cỏ ra phía ngoài cửa cho đến khi hết 36 ngọn thì chuyển sang lễ khoa hoa tan, là lễ cúng hoa, đưa ngũ cốc cho người chết. Đoàn tang hiếu tiếp tục cùng thầy Tào đi vòng quanh áo quan, đến trước nong gạo thầy Tào cúi xuống vốc gạo vãi lên trên vong linh.

Lễ cấp phó là lễ cấp tiền bạc, nhà cửa, những vật dụng cho người chết dùng khi bắt đầu cuộc sống mới. Thầy Tào ghi lại những thứ mà gia đình gửi cho người mất. Thầy đọc tờ cấp phó, sau đó tang hiếu điểm chỉ để chứng nhận những vật dụng mà người chết sẽ mang theo. Tờ cấp phó được cho vào phong bì cùng vài hạt gạo, ít tiền thật rồi phong lại, treo lên cành phan. Bài vị của người chết cũng được gắn lên cành phan để chuẩn bị làm lễ khai khoa lộ, mở đường cho hồn người chết về trời. Người ta lấy một tấm vải trắng, mở hai viên ngói trên cửa nhà đặt một đầu vải vào lỗ đó, đầu kia thả xuống đất nơi cửa nhà táng đặt linh vị người chết hướng ra. Gia đình từ biệt người chết và hóa vàng mã, quần áo, giấy thông hành cho người chết. Thầy Tào cùng tang hiếu đến trước đàn làm lễ tạ ơn các vị thần linh chứng giám và giúp đưa linh hồn người chết về trời.

Lễ tách hồn (pjải khoăn) có nghĩa là chia tay với vong hồn. Thầy Tào lấy bát mỡ dùng giấy bản xoắn làm bấc để thắp đèn, đặt lên lưng tang chủ và làm lễ tách hồn. Khi tang chủ ngồi dậy bát úp ngược xuống đất là điềm tốt. Hồn người chết được thầy Tào đưa lên trời qua dải cầu trắng. Lúc này, tang hiếu khóc tiễn đưa người chết và làm lễ tắt đèn (phản đăng). Thầy Tào cùng tang hiếu đi quanh áo quan theo chiều ngược kim đồng hồ để từ biệt người thân, thầy lần lượt tắt từng ngọn đèn và xướng bài ca tắt đèn.

Hành tang còn gọi là lễ đưa ma hay hoàn sơn (trở về núi). Từ sáng sớm người con gái gánh đồ lễ lên chân núi Phya Đán để xin thần thổ địa cho chôn cất người chết vào giờ lành. Trước khi khiêng áo quan ra khỏi cửa, toàn gia quyến làm lễ mặc niệm. Thầy Tào làm phép thu thập đủ hồn vía của người chết để sau này người chết không quay về phá rối con cháu (2). Áo quan được nhấc lên, con cái của người chết chui qua lại với ý nghĩa không muốn dời xa người chết, muốn cõng hồn người chết về núi. Khi áo quan ra khỏi cửa, chiếu, bàn để đồ lễ được lật ngửa lên, người ta dùng chổi quét uế bẩn ra khỏi nhà. Thầy Tào làm phép đuổi tà ra ngoài rồi đóng cửa lại.

Trong đám đưa ma, đi trước bao giờ cũng là người vác đuốc dẫn đường vì người chết không quan niệm được ban ngày và ban đêm. Phía sau là con cháu cầm chướng, cây hoa thiên lý và cây tiền, những người trong ban tang lễ khiêng áo quan, chủ tang và người thân trong gia đình, thầy Tào cầm cành phan, bà con trong bản đưa tiễn người chết. Khi ra đến đầu bản người ta quay hướng cửa nhà táng về hướng nhà để người chết chào từ biệt gia đình và làng xóm.

Những người chưa có điều kiện làm đám ma cho người chết thì vẫn chôn cất nhưng không làm đám. Họ đợi đến khi có đủ tiền thì làm đám ma khô. Trình tự như đám bình thường, chỉ khác một điểm là trước khi làm ma, thầy cúng ra mộ chiêu hồn người chết về để chuẩn bị làm các lễ thức.

Trong đám tang cũng như 1 năm sau đó, người Tày kiêng ăn những gì ám chỉ đến bộ phận của con người. Không ăn bánh gio (được coi như xương cốt), nhãn (được coi là con ngươi), bún (được coi là gân) của người chết...

Lễ hạ huyệt: Khi về đến núi thầy Tào làm lễ nhập địa cho người chết. Khi hạ quan mặt người chết bao giờ cũng hướng về phía Đông. Tục xưa, trước khi hạ quan xuống huyệt thầy Tào làm phép thả một con gà trống xuống trước để "an sơn thần" rồi để nó nhảy lên bờ trong khi con cháu ngồi xung quanh huyệt. Họ cho rằng con gà trống nhảy về phía người nào người đó sẽ được phúc lành.

Khi mộ đắp xong thầy Tào làm phép hóa nhà táng cùng các cây hoa, đồ vàng mã, cấp phó, một số đồ dùng tư trang thì hơ qua lửa tượng trưng là đã chu cấp cho người chết. Sau khi chôn người chết, thầy Tào lập bài vị cho người chết để thờ tại gia đình. Con cháu đã báo hiếu được với người thân đã mất, họ đã lo được mồ yên mả đẹp, đất đai, nhà cửa để người thân của mình được hưởng phúc ở thế giới bên kia.

Vũ Diệu Trung
Các tài liệu khảo cổ ở vùng Nà Goọc (Nguyên Bình), Tôôm Đeng (Hà Quảng), Kẻ Ngoã (Hoà An)... cho thấy người Tày đã cư trú lâu đời tại Cao Bằng, xen kẽ với nhiều dân tộc khác như Nùng, Dao, Mông... ở lòng hồ Nêôgen (nay là lòng máng sông Bằng), lưu vực sông Bắc Vọng, Vi Vọng, sông Quây Sơn, những cánh đồng rộng Cẩu Pung (Hoà An), Đào Ngạn (Hà Quảng) (1)...

Họ lấy việc trồng lúa nước làm nguồn sống chính, vì vậy, làng bản thường ở những địa điểm thuận lợi cho việc canh tác lúa nước. Ở đầu bản thường có con lạch hoặc mương nước chảy qua, tiếp đó là những vạt ruộng bằng phẳng hay những vạt ruộng vàn - ruộng bậc thang.

Cư dân Tày có đời sống tín ngưỡng tâm linh phong phú. Họ quan niệm cõi người đang sống là mường gần và cõi mà người chết sẽ đến là mường phi (nơi cư trú của linh hồn người chết, nơi cũng có nhà cửa ruộng vườn, có một cuộc sống tốt đẹp hơn...). Họ còn cho rằng, con người gồm hai phần: thể xác và hồn vía (khoăn), con trai có 7 khoăn, con gái có 9 khoăn. Có nhiều tập tục liên quan đến khoăn: khi ốm là lúc khoăn đi chơi hay bị lạc, thầy Tào phải làm lễ gọi khoăn về. Khi khoăn rời khỏi thân xác (khoăn pây) nghĩa là người đó đã chết, phải làm ma cho họ.

Thành ngữ người Tày có câu: Hết kin nhoòng mỏ mạ (Làm ăn nhờ mồ mả), vì thế, khi có người chết, gia đình cố gắng làm bằng được đám tang, còn gọi là Lễ báo hiếu. Gia đình nào không có điều kiện thì vẫn chôn người chết, nhưng những nghi lễ báo hiếu sẽ phải làm sau, khi có điều kiện. Lễ báo hiếu chính là lễ đưa linh hồn người chết lên trời sống cuộc đời nhàn nhã, có như vậy hồn người chết mới phù hộ cho con cháu.

Trong thủ tục làm đám, gia đình phải mời từ 1 đến 3 vị thầy Tào tiến hành những nghi thức tang lễ. Người chết quàn trong nhà khoảng từ 3, 5, 7 hoặc 9 ngày tùy theo quyết định của thầy Tào.
Một trong những nghi lễ đầu tiên là thủ tục nhập quan. Người ta chọn những cây gỗ tốt để làm áo quan, sau đó là lễ nhập quan. Khi đóng nắp, người ta lấy thóc nếp đốt thành tro đổ nước đun, quấy thành hồ trát kín áo quan.

Nhà táng làm 2 tầng, tầng trên để ở, tầng dưới là chỗ nuôi súc vật, mô phỏng kiểu nhà sàn cổ của người Tày. Trước khi phát tang, gia đình làm thủ tục che ban thờ tổ tiên. Áo quan để ngang gian chính, đầu đặt hướng Nam, phía trên có bát cơm quả trứng (hướng Nam là hướng đi xa, người mất phải dời xa những người đang sống). Cửa nhà táng đặt theo hướng nhà, bên trong là bài vị làm bằng giấy đỏ ghi họ tên, ngày sinh và ngày mất của người quá cố. Hai bên áo quan người ta làm cây hoa thiên lý, cây tiền, tượng trưng cho sự hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Cờ phan (cờ ma) được dựng phía đầu áo quan, tượng trưng cho vong hồn của người chết trong lúc tiến hành các nghi lễ.

Khi chọn được giờ tốt, thầy Tào cùng những người giúp việc chuẩn bị thủ tục làm ma cho người chết. Dân trong bản cùng đến giúp gia đình làm cơm cúng, làm mũ tang (ăn khuốt) cho tang chủ theo cách thức cổ truyền, biểu thị cho sự ghi nhớ công ơn của những người đang sống đối với người chết.

Tiếp đó là việc lập Đàn lễ. Tranh đạo kinh sư (3 vị Tam Thanh hay còn gọi là Tam Bảo) được treo lên, phía vách trái treo tranh vẽ Ngọc Hoàng và tuần tự, thầy Tào sẽ chuyển tin báo về người chết tới Ngọc Hoàng trong lễ trình báo. Đàn lễ gồm: Thượng đàn (điện Tam Bảo); Ban thờ thập điện (các vị thần trông coi việc cõi âm); Trung đàn (ban thờ tổ tiên thầy Tào); Bát hương của người chết và nơi để ấn tín của Ngọc Hoàng. Tang chủ cùng gia đình hành lễ và túc trực trước linh vị, trong khi đó thầy Tào trình báo tổ tiên và các thánh thần lý do làm lễ, xin chứng giám, giúp đưa hồn người chết lên trời. Tổ tiên ở đây chính là tổ tiên của vị thầy Tào, cùng với thầy thông thiên với các vị thánh thần.

Lễ tẩy uế bắt đầu với nghi thức thầy Tào dùng bát nước lá bưởi (thứ lá tinh khiết, mùi thơm át được tà ma và dùng để tẩy rửa đàn lễ thì khi hành lễ cho thanh tịnh) tẩy uế 5 phương. Thầy Tào khấn mời thần thánh uống trà, nhờ thơ lại đưa tin lên Ngọc Hoàng rằng: Tại bản Phya Đán xã Đào Ngạn huyện Hà Quảng tỉnh Cao Bằng có người chết, xin Ngọc Hoàng cấp giấy thông hành để người chết được lên trời với tổ tiên. Đứng sau thầy Tào bao giờ cũng là tang chủ. Thầy Tào, lúc này đã là hiện thân của Ngọc Hoàng, tay cầm tích trượng đồng ý cấp giấy thông hành cho người chết. Sau đó là lễ tụng kinh cứu khổ đổi đời cho người chết.

Lễ cầu xin nước tiến hành vào khoảng 12 giờ đêm sau khi người quá cố được cấp giấy thông hành. Trước đàn lễ thầy Tào khấn bài ca xin nước và cùng đoàn nhạc hiếu đến trước linh cữu chuẩn bị đi xin nước. Dụng cụ lấy nước gồm một thanh kiếm tre; một ống tre treo vào thanh kiếm; một ống tre buộc bó lúa, lược, tiền giấy (bông khẩu péc) dùng để dẫn đường. Khi hành lễ, thầy Tào mời linh hồn người chết theo bài vị và cành phan ra suối lấy nước. Đến bờ suối, tang chủ làm lễ dâng hương cho các thần cai quản nguồn nước. Thầy Tào hát kể mời 6 vị thần trông coi ngũ hành lên xơi trà, ăn cỗ và cầu xin nước; vái lạy 5 phương, lạy xong phương nào vứt về phương đó một tờ tiền. Tang chủ xuống bờ sông múc nước. Trong lúc đó, thầy Tào khấn bài Long Vương cấp nước thần. Lấy nước xong, bài vị và cành phan được rước về nhà, tang chủ cầm tấm vải trắng che đầu để hồn người chết không bị mưa, nắng, gió xâm phạm.

Người Tày quan niệm con người lúc sống ai cũng có tội nên khi chết hồn bị giam hãm dưới ngục tối (thủy phủ). Hồn rời khỏi thân xác thì ngay lập tức dưới địa phủ giam lại, có 9 vị thần canh giữ. Muốn cho người chết siêu thoát, người ta phải phá ngục, chuộc hồn lên làm lễ khai quang để người chết về trời.

Lễ phá ngục được tiến hành vào ban ngày. Ngục bao giờ cũng dựng trong khuôn viên nhà, phía trước là ban thờ với lễ vật thủ lợn, cỗ tạp để dâng cúng thần linh trong bản. Người ta còn cúng một con gà, một con vịt sống dùng đưa hồn vượt ngục về nhà.

Ngục quây vải đen là ngục dương; quây vải trắng là ngục âm; quanh ngục cắm 9 bài vị đặt ở 9 hướng; bài vị người chết đặt ở cửa ngục. Nếu người chết do tuổi già, đau ốm thì chỉ phá một ngục 9 lao tù; chết vì tai nạn thì phá thêm ngục nữa là thương ngục, chết do ngã vực núi thì phá thần núi ngục; chết vì nước thì phá thêm thủy phủ ngục; chết vì sấm sét phá thêm lôi vương ngục; phụ nữ chết do sinh nở phá thêm ngục huyết bồn.

Thầy Tào mời các thần về chứng giám, giúp phá ngục chuộc hồn về. Lễ tẩy uế được diễn ra nơi dựng ngục để chuẩn bị làm lễ phá ngục. Thầy Tào tụng kinh cứu khổ cho người chết. Tờ xá văn và cáo văn được để trên bát gạo đặt trước cửa ngục tù cầu xin xá tội cho người chết. Sau đó thầy Tào hát cầu thánh thần chuộc tội và thả hồn về.

Khi phá ngục thầy đi vòng quanh ngục theo chiều kim đồng hồ 3 vòng vừa đi vừa tụng kinh cứu khổ cho người chết để phá bỏ vòng ngoài. Khi vòng ngoài được giỡ bỏ, thầy cùng gia đình đi vòng quanh ngục, lấy chân giẫm các cột hương dựng vòng ngoài để chuẩn bị phá ngục Âm và ngục Dương.

Cửa ngục được phá với động tác thầy Tào dùng dao nhọn chặt tượng trưng cờ cắm ở đó. Phá trước tiên là cửa phương Đông đến phương Nam, phương Tây, phương Bắc, rồi Đông Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, cuối cùng là trung tâm ngục.

Tiếp theo thầy Tào tay trái cầm con vịt sống, tay phải làm bùa chú để giúp linh hồn người chết vượt biển từ ngục Âm lên ngục Dương. Thầy lại đi vòng quanh ngục và làm phép tẩy uế nơi ngục Âm vừa được phá, đồng thời gọi linh hồn về trú ngụ trên bài vị để lên ngục Dương.

Những nghi lễ phá ngục Dương lại được tiếp tục giống như phá ngục Âm. Sau cùng là lễ thu hồn người chết từ ngục Dương lên bài vị, và yểm bùa nơi dựng ngục.

Thầy Tào dẫn linh hồn người chết cùng gia quyến đi qua hai cổng chào Thái Sơn và Phong Đô, xin các thần trông coi thổ địa cho hồn được về nhà. Trước cổng chào để một cái mâm, trên có vài bộ quần áo, khăn mũ, giầy, tất, tiền bạc... khi hóa lửa nhìn lớp tro thấy xuất hiện hình dáng là gót chân người, chim, gà thì có nghĩa là hồn người chết về dưới lốt con vật này, là điềm tốt. Nếu là dấu chân ngựa, trâu thì không tốt, người chết không thể hóa kiếp làm người được nữa.

Trước khi đưa hồn người chết vào nhà, linh vị phải đi qua một chiếc cầu uốn cong như hình bụng người đàn bà chửa, sau đó mảnh vải thô dùng làm cầu được cuốn lên coi như hồn đã đi qua. Dưới cầu là hai bát nước màu trắng và đỏ được đổ ra (người Tày quan niệm đây là máu của người mẹ vừa sinh con, thủ tục này chỉ được tiến hành đối với người chết là đàn bà).

Linh hồn được rước vào nhà, lễ khai quang (mở sáng mắt cho người chết) bắt đầu. Với người Tày, người chết xuống cõi âm tối đen mịt mù, phải nhờ thánh Tam Bảo đốt đèn và đèn ở đây tượng trưng là bảy ánh mặt trời chiếu sáng chốn đen tối, giúp người chết nhìn thấy đường để lên trời.

Trong nhà làm lễ khai quang cho người chết thì ở ngoài sân làm lễ cúng các vị thần trong bản và cầu siêu, cho ma lang thang cùng hưởng cỗ nhà đám.

Chiều tối, sau lễ phá ngục, con cháu trong gia đình dâng lễ vật để báo hiếu công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Con trai là người nối dõi tông đường, đứng ra chịu tang chống gậy cõng hồn cha mẹ đến nơi an nghỉ cuối cùng và cùng với thầy Tào hoàn tất những thủ tục để họ có thể về với tổ tiên. Con gái dâng thủ lợn, vàng mã, tiền bạc để cha mẹ có đủ mọi thứ cần thiết đến mường phi.

Lễ nhiên đăng (đốt đèn) nhằm mở sáng đường cho hồn người chết. Bốn cây nến đặt ở 4 góc, một cây để ở giữa nắp áo quan rồi lần lượt được thắp sáng lên. Người ta đổ 3 bơ gạo vào nong, đặt trước vong linh, gạo được gạt phẳng, rồi dùng 4 thanh tre đặt thành vuông, sau đó 10 ngọn nến được thắp lên theo các phương: Đông, Nam, Tây, Bắc, Đông Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, Trung, Thượng, Hạ phương. Mười ngọn đèn tượng trưng cho mười ông vua đèn (thập vương đèn) có nhiệm vụ đưa linh hồn người chết lên trời.

Lễ nhiễu quan được bắt đầu với nghi thức thầy Tào cùng gia quyến đi quanh vong linh người chết than khóc. Thầy Tào cầm quyển kinh vừa đi vừa khấn, bò tiếp sau là tang chủ (cháu nối dòng của người quá cố) trên lưng buộc linh vị, con rể cầm cành phan, con gái gánh gạo, gánh gà vịt, sau cùng là những người thân trong gia đình. Họ vừa đi vừa nghe các bài ca Khởi linh nhiễu quan, Cứu khổ nhiễu quan, Thập nguyệt hoài thai (Bài này chỉ dùng cho trường hợp người mẹ mất), Thập biệt khoa và Giải hạn cho vong hồn người chết. Họ quan niệm, những người thân đi quanh vong linh người chết nhiều bao nhiêu thì hồn người chết sớm được siêu thoát bấy nhiêu và đây cũng thể hiện mức độ báo hiếu của con cháu đối với công ơn của cha mẹ.

Xưa người ta thường làm lễ giải oan cho người chết. Thầy Tào lấy 3 bơ gạo đổ vào nong và đặt vào chỗ gạo đó 36 ngọn cỏ gianh để trừ tà. Thầy Tào tay cầm cành phan vừa đi vừa xướng bài ca giải kết, theo sau là tang hiếu. Đến trước nong gạo, thầy cúi xuống cầm 3 ngọn cỏ và viết bùa chú. Đi hết mỗi vòng thầy ném cỏ ra phía ngoài cửa cho đến khi hết 36 ngọn thì chuyển sang lễ khoa hoa tan, là lễ cúng hoa, đưa ngũ cốc cho người chết. Đoàn tang hiếu tiếp tục cùng thầy Tào đi vòng quanh áo quan, đến trước nong gạo thầy Tào cúi xuống vốc gạo vãi lên trên vong linh.

Lễ cấp phó là lễ cấp tiền bạc, nhà cửa, những vật dụng cho người chết dùng khi bắt đầu cuộc sống mới. Thầy Tào ghi lại những thứ mà gia đình gửi cho người mất. Thầy đọc tờ cấp phó, sau đó tang hiếu điểm chỉ để chứng nhận những vật dụng mà người chết sẽ mang theo. Tờ cấp phó được cho vào phong bì cùng vài hạt gạo, ít tiền thật rồi phong lại, treo lên cành phan. Bài vị của người chết cũng được gắn lên cành phan để chuẩn bị làm lễ khai khoa lộ, mở đường cho hồn người chết về trời. Người ta lấy một tấm vải trắng, mở hai viên ngói trên cửa nhà đặt một đầu vải vào lỗ đó, đầu kia thả xuống đất nơi cửa nhà táng đặt linh vị người chết hướng ra. Gia đình từ biệt người chết và hóa vàng mã, quần áo, giấy thông hành cho người chết. Thầy Tào cùng tang hiếu đến trước đàn làm lễ tạ ơn các vị thần linh chứng giám và giúp đưa linh hồn người chết về trời.

Lễ tách hồn (pjải khoăn) có nghĩa là chia tay với vong hồn. Thầy Tào lấy bát mỡ dùng giấy bản xoắn làm bấc để thắp đèn, đặt lên lưng tang chủ và làm lễ tách hồn. Khi tang chủ ngồi dậy bát úp ngược xuống đất là điềm tốt. Hồn người chết được thầy Tào đưa lên trời qua dải cầu trắng. Lúc này, tang hiếu khóc tiễn đưa người chết và làm lễ tắt đèn (phản đăng). Thầy Tào cùng tang hiếu đi quanh áo quan theo chiều ngược kim đồng hồ để từ biệt người thân, thầy lần lượt tắt từng ngọn đèn và xướng bài ca tắt đèn.

Hành tang còn gọi là lễ đưa ma hay hoàn sơn (trở về núi). Từ sáng sớm người con gái gánh đồ lễ lên chân núi Phya Đán để xin thần thổ địa cho chôn cất người chết vào giờ lành. Trước khi khiêng áo quan ra khỏi cửa, toàn gia quyến làm lễ mặc niệm. Thầy Tào làm phép thu thập đủ hồn vía của người chết để sau này người chết không quay về phá rối con cháu (2). Áo quan được nhấc lên, con cái của người chết chui qua lại với ý nghĩa không muốn dời xa người chết, muốn cõng hồn người chết về núi. Khi áo quan ra khỏi cửa, chiếu, bàn để đồ lễ được lật ngửa lên, người ta dùng chổi quét uế bẩn ra khỏi nhà. Thầy Tào làm phép đuổi tà ra ngoài rồi đóng cửa lại.

Trong đám đưa ma, đi trước bao giờ cũng là người vác đuốc dẫn đường vì người chết không quan niệm được ban ngày và ban đêm. Phía sau là con cháu cầm chướng, cây hoa thiên lý và cây tiền, những người trong ban tang lễ khiêng áo quan, chủ tang và người thân trong gia đình, thầy Tào cầm cành phan, bà con trong bản đưa tiễn người chết. Khi ra đến đầu bản người ta quay hướng cửa nhà táng về hướng nhà để người chết chào từ biệt gia đình và làng xóm.

Những người chưa có điều kiện làm đám ma cho người chết thì vẫn chôn cất nhưng không làm đám. Họ đợi đến khi có đủ tiền thì làm đám ma khô. Trình tự như đám bình thường, chỉ khác một điểm là trước khi làm ma, thầy cúng ra mộ chiêu hồn người chết về để chuẩn bị làm các lễ thức.

Trong đám tang cũng như 1 năm sau đó, người Tày kiêng ăn những gì ám chỉ đến bộ phận của con người. Không ăn bánh gio (được coi như xương cốt), nhãn (được coi là con ngươi), bún (được coi là gân) của người chết...

Lễ hạ huyệt: Khi về đến núi thầy Tào làm lễ nhập địa cho người chết. Khi hạ quan mặt người chết bao giờ cũng hướng về phía Đông. Tục xưa, trước khi hạ quan xuống huyệt thầy Tào làm phép thả một con gà trống xuống trước để "an sơn thần" rồi để nó nhảy lên bờ trong khi con cháu ngồi xung quanh huyệt. Họ cho rằng con gà trống nhảy về phía người nào người đó sẽ được phúc lành.

Khi mộ đắp xong thầy Tào làm phép hóa nhà táng cùng các cây hoa, đồ vàng mã, cấp phó, một số đồ dùng tư trang thì hơ qua lửa tượng trưng là đã chu cấp cho người chết. Sau khi chôn người chết, thầy Tào lập bài vị cho người chết để thờ tại gia đình. Con cháu đã báo hiếu được với người thân đã mất, họ đã lo được mồ yên mả đẹp, đất đai, nhà cửa để người thân của mình được hưởng phúc ở thế giới bên kia.

Vũ Diệu Trung

Tết Cá người Tày trở thành di sản quốc gia (San Nguyên)

Cuộc đua cá chép là phần nhiều người mong đợi  nhất trong lễ Tết Cá.

(Dân Việt) Người Tày ở xã Mậu Duệ, huyện Yên Minh, Hà Giang vừa tự hào đón nhận tin vui Tết Cá của dân tộc mình được công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia. Tết Cá đã gắn bó với người Tày ở xã Mậu Duệ từ 300 – 400 năm trước, thường được tổ chức vào ngày 9.9 âm lịch hàng năm.

Độc đáo lễ mừng nhà mới của người Tày
Theo ông Nguyễn Đình Thái ở thôn Nà Sài, xã Mậu Duệ, Tết Cá bắt nguồn từ việc người Tày thường sống bên cạnh những dòng sông, suối, khai phá ruộng bậc thang để trồng lúa nước. Từ đời sống sinh hoạt hằng ngày, người dân thả cá chép vào ruộng khi canh tác lúa (thường vào vụ mùa). Hằng năm, họ tổ chức ăn mừng đón vụ lúa mới và dâng lễ vật bằng cá chép nuôi tại ruộng để cảm ơn thần linh, tổ tiên đã phù hộ cho bà con một năm mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt. Đồng thời đó cũng là dịp để mọi người gửi niềm mong mỏi cho mùa màng năm sau tươi tốt, năng suất cao hơn, người dân ngày càng no đủ.

Trong Tết Cá, có 2 phần chính là phần lễ và phần hội. Phần lễ là phần chế biến, chuẩn bị các món ẩm thực từ cá chép ruộng để dâng cúng tổ tiên. Trong mâm cỗ cúng thường có từ 7 - 9 món ăn chế biến từ cá chép ruộng, nhưng quan trọng nhất và không được thiếu 3 món chính là: Cá rán, cá nướng và cá đồ măng chua.

Phần hội trong Tết Cá là cuộc thi bơi của các chú cá (hay còn gọi là Hội đua cá). Các “vận động viên” cá chép được buộc một sợi dây dù (hoặc cước) vào lưng và nối với những chiếc phao, thuyền gỗ nhỏ. Sau đó chúng được đặt vào những làn nước đã chuẩn bị sẵn và các chủ cá té nước để cho cá bơi ngược dòng. Cá nào đến đích trước sẽ dành phần thắng

San Nguyên
Cuộc đua cá chép là phần nhiều người mong đợi  nhất trong lễ Tết Cá.

(Dân Việt) Người Tày ở xã Mậu Duệ, huyện Yên Minh, Hà Giang vừa tự hào đón nhận tin vui Tết Cá của dân tộc mình được công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia. Tết Cá đã gắn bó với người Tày ở xã Mậu Duệ từ 300 – 400 năm trước, thường được tổ chức vào ngày 9.9 âm lịch hàng năm.

Độc đáo lễ mừng nhà mới của người Tày
Theo ông Nguyễn Đình Thái ở thôn Nà Sài, xã Mậu Duệ, Tết Cá bắt nguồn từ việc người Tày thường sống bên cạnh những dòng sông, suối, khai phá ruộng bậc thang để trồng lúa nước. Từ đời sống sinh hoạt hằng ngày, người dân thả cá chép vào ruộng khi canh tác lúa (thường vào vụ mùa). Hằng năm, họ tổ chức ăn mừng đón vụ lúa mới và dâng lễ vật bằng cá chép nuôi tại ruộng để cảm ơn thần linh, tổ tiên đã phù hộ cho bà con một năm mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt. Đồng thời đó cũng là dịp để mọi người gửi niềm mong mỏi cho mùa màng năm sau tươi tốt, năng suất cao hơn, người dân ngày càng no đủ.

Trong Tết Cá, có 2 phần chính là phần lễ và phần hội. Phần lễ là phần chế biến, chuẩn bị các món ẩm thực từ cá chép ruộng để dâng cúng tổ tiên. Trong mâm cỗ cúng thường có từ 7 - 9 món ăn chế biến từ cá chép ruộng, nhưng quan trọng nhất và không được thiếu 3 món chính là: Cá rán, cá nướng và cá đồ măng chua.

Phần hội trong Tết Cá là cuộc thi bơi của các chú cá (hay còn gọi là Hội đua cá). Các “vận động viên” cá chép được buộc một sợi dây dù (hoặc cước) vào lưng và nối với những chiếc phao, thuyền gỗ nhỏ. Sau đó chúng được đặt vào những làn nước đã chuẩn bị sẵn và các chủ cá té nước để cho cá bơi ngược dòng. Cá nào đến đích trước sẽ dành phần thắng

San Nguyên