This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Tổ chức làng bản của người Tày ở Thái Nguyên (Hoàng Minh Thắng)

Dân tộc Tày đứng thứ 2 trong các dân tộc ở Thái Nguyên và có mặt ở tất cả các xã, phường trên địa bàn tỉnh. Có thể do tổ chức mường của người Tày Thái Nguyên đã bị giải thể từ lâu nên các hình thức tổ chức hành chính như châu, tổng và xã đã được thành lập sớm. Tuy nhiên, đơn vị xã hội cơ sở của người Tày vẫn luôn là bản. Đó là đơn vị tụ cư của nhiều dòng họ lấy quan hệ láng giềng làm cơ sở, có thiết chế tự quản và những định chế riêng.

Người Tày ở Thái Nguyên thường tụ cư ở những vùng giáp ranh giữa rừng và ruộng. Các bản của người Tày ở đây thường tựa lưng vào núi rừng, hướng xuống thung lũng. Mỗi bản thường có địa vực cư trú riêng, bao gồm đất ở, đất canh tác, rừng rú, sông suối, bãi chăn thả gia súc… Ranh giới giữa các bản thường được xác định theo đường phân thủy, eo núi, sông suối hoặc đường sá. Quy mô các bản Tày vừa và nhỏ, mỗi bản thường chỉ có khoảng 30 đến trên dưới 60 hộ gia đình. Cá biệt mới có những bản có quy mô trên 100 nóc nhà. Trong bản đều có nhiều dòng họ cùng chung sống và quan hệ láng giềng được coi là quan hệ chủ đạo. Trong mỗi bản Tày thường có một vài dòng họ có số nhân khẩu đông hơn, có vị thế và tiếng nói có trọng lượng hơn so với các dòng họ khác.

Bản được bố trí theo lối mật tập hoặc rải rác. Trong mỗi bản thường có nhiều chòm xóm nhỏ, phân bố tương đối biệt lập, nhưng đều hướng ra cánh đồng hoặc con đường cái chạy qua. Các tên gọi bản thường được đệm từ: nạ (ruộng), pạc (cửa) hoặc loòng (suối), nắm (nước). Bên cạnh đó, cũng có nhiều bản được đặt theo tên tiếng Việt, do tiếp thu ảnh hưởng từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp.

Trong mỗi bản có những họ là gốc Tày cổ, nhưng cũng có những họ là gốc Kinh bị Tày hóa. Đặc biệt, từ sau những năm 60 của thế kỷ XX, thực hiện chủ trương xây dựng kinh tế mới của Đảng và Nhà nước, đã có sự biến đối trong thành phần dân cư của các thôn, bản. Hầu hết các thôn, bản gần trung tâm xã hoặc gần trục giao thông đều có sự xen cư giữa người Tày với người Kinh, thậm chí, trong cùng một bản có người Tày, Kinh và Dao cư trú.

Chế độ tư hữu ruộng đất của người Tày ở Thái Nguyên đã được xác lập từ lây. Tuy nhiên, tàn dư của ruộng đất công vẫn tồn tại trong các thôn bản. Đó là đất hương hỏa cho các đền miếu.

Trước năm 1954, ở các vùng người Tày Thái Nguyên, tuy có hiện tượng đồng ruộng tập trung vào tay phú nông, song diễn ra không gay gắt như ở vùng đồng bằng. Đặc biệt, trong bối cảnh Thái Nguyên là vùng tự do nên người nông dân Tày vẫn có đất ruộng, nương rẫy để canh tác.

Đầu năm 60 của thế kỷ XX, các HTX nông nghiệp đã được xây dựng trên cơ sở phạm vi thôn bản hoặc liên thôn bản, đất đai được tập trung vào các tổ chức kinh tế tập thể, do các ban quản trị điều hành và tổ chức sản xuất. Sau khoán 10, nhất là sau năm 1993, khi Luật Đất đai ra đời, do có sự buông lỏng quản lý HTX đã dẫn đến hiện tượng tranh chấp đất xảy ra tại một số địa phương, nhưng về sau đã được cấp ủy, chính quyền giải quyết ổn thỏa.

Xưa kia, mỗi bản Tày đều có thiết chế tự quản riêng, dựa trên cơ sở của tập quán Pháp. Tuy nhiên, trong bối cảnh của một xã hội đã có sự phân hóa giai cấp, cho đến trước năm 1954, thiết chế tự quản của người Tày ở đây đã có sự thay đổi rõ rệt.

Dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, các bản Tày thường nằm dưới các thiết chế quan phương như châu, tổng, xã, bản. Đôi khi, những thôn bản lớn cũng được cấu trúc thành một xã trong bộ máy nhà nước với người đứng đầu là lý trưởng. Với những thôn bản nhỏ, chính quyền phong kiến cấp trên thường ghép hai, ba thôn bản lại thành một xã. Trong các thôn bản này, người đứng đầu được gọi là trưởng bản. Về chức năng, trưởng bản là đại diện cho thiết chế tự quản, thể hiện ý chí của cộng đồng, thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại đối với thôn bản và cấp trên. Từ một hình thức phi quan phương, trưởng bản ở hầu hết các thôn bản của người Tày đã trở thành một chức quan phương, một thành phần trong bộ máy cai trị của giai cấp phong kiến.

Trong quá trình hợp tác hóa, chức vị trưởng bản của người Tày hầu như bị xóa bỏ. Quyền điều hành các hoạt động chung của thôn bản được trao vào tay các chủ nhiệm HTX hay các đội trưởng sản xuất. Đến giữa những năm 90 của thế kỷ XX, với việc kiện toàn lại các tổ chức kinh tế trong khu vực nông nghiệp – nông thôn, Đảng và Nhà nước lại chủ trương tăng cường công tác quản lý cơ sở, chức năng trưởng bản được phục hồi với những chức năng và nhiệm vụ mới. Hiện tại, mỗi xóm bản đều có một trưởng xóm bản.

Chế độ sở hữu của người Tày ở đây gồm hai hình thức: sở hữu công cộng của xóm bản và sở hữu tư nhân. Thuộc về sở hữu công cộng bao gồm toàn bộ đất đai, rừng núi, sông ngòi và tài nguyên trong phạm vi thôn bản. Ngoài ra, còn có các công trình công cộng như đường sá, cầu cống, đền miếu… Sở hữu tư nhân gồm tất cả các tư liệu sản xuất: đất đai, nương rẫy đã và đang được sử dụng, khai thác của mỗi gia đình. Ngoài ra, còn có các tài sản khác như nhà cửa, các sản phẩm nông nghiệp, thủ công nghiệp, các loại đồ gia dụng… do các gia đình tạo nên. Trong các xóm bản còn có  những quy định liên quan đến việc bản vệ rừng, bảo vệ nguồn nước sản xuất cũng như sinh hoạt. Hiện nay, hầu hết các bản Tày đều đã xây dựng những quy ước riêng liên quan đến mọi khía cạnh của đời sống xã hội, từ việc bảo vệ rừng, phát triển sản xuất, bảo vệ mùa màng đến thực hiện nếp sống mới trong ma chay, cưới xin.

Quan hệ cộng đồng là đặc trưng nổi bật trong các xóm bản của người Tay. Người dân Tày trong các xóm bản có những mối liên quan chặt chẽ trong tất cả các khía cạnh của đời sống, từ lao động sản xuất, các quá trình vật chất đến đời sống tinh thần và tôn giáo tín ngưỡng. Không chỉ duy trì quan hệ dòng họ, thân tộc, thích tộc, người Tày còn đặc biệt coi trọng tình làng nghĩa xóm. Bất kể các công việc quan trọng của mỗi đời người (làm nhà mới, cưới xin, tang ma, …) đều được coi là công việc chung của cả cộng đồng. Đặc biệt, từ xưa một số địa phương người Tày vẫn duy trì một hình thức tổ chức xã hội gọi là phe, một tổ chức chuyên lo việc tang ma, sau này, phe đã tham gia vào việc tổ chức, điều hành nhiều hoạt động khác như cưới xin, làm nhà mới; thậm chí, có khi phe còn đứng ra giải quyết những khúc mắc giữa các thành viên với nhau. Các dịp sinh hoạt cộng đồng đều được coi là một cơ hội thắt chặt tình đoàn kết gắn bó xóm giềng, thôn bản. Thông qua đó, ý thức về một tộc người càng được củng cố và nâng cao.

 Hoàng Minh Thắng
Dân tộc Tày đứng thứ 2 trong các dân tộc ở Thái Nguyên và có mặt ở tất cả các xã, phường trên địa bàn tỉnh. Có thể do tổ chức mường của người Tày Thái Nguyên đã bị giải thể từ lâu nên các hình thức tổ chức hành chính như châu, tổng và xã đã được thành lập sớm. Tuy nhiên, đơn vị xã hội cơ sở của người Tày vẫn luôn là bản. Đó là đơn vị tụ cư của nhiều dòng họ lấy quan hệ láng giềng làm cơ sở, có thiết chế tự quản và những định chế riêng.

Người Tày ở Thái Nguyên thường tụ cư ở những vùng giáp ranh giữa rừng và ruộng. Các bản của người Tày ở đây thường tựa lưng vào núi rừng, hướng xuống thung lũng. Mỗi bản thường có địa vực cư trú riêng, bao gồm đất ở, đất canh tác, rừng rú, sông suối, bãi chăn thả gia súc… Ranh giới giữa các bản thường được xác định theo đường phân thủy, eo núi, sông suối hoặc đường sá. Quy mô các bản Tày vừa và nhỏ, mỗi bản thường chỉ có khoảng 30 đến trên dưới 60 hộ gia đình. Cá biệt mới có những bản có quy mô trên 100 nóc nhà. Trong bản đều có nhiều dòng họ cùng chung sống và quan hệ láng giềng được coi là quan hệ chủ đạo. Trong mỗi bản Tày thường có một vài dòng họ có số nhân khẩu đông hơn, có vị thế và tiếng nói có trọng lượng hơn so với các dòng họ khác.

Bản được bố trí theo lối mật tập hoặc rải rác. Trong mỗi bản thường có nhiều chòm xóm nhỏ, phân bố tương đối biệt lập, nhưng đều hướng ra cánh đồng hoặc con đường cái chạy qua. Các tên gọi bản thường được đệm từ: nạ (ruộng), pạc (cửa) hoặc loòng (suối), nắm (nước). Bên cạnh đó, cũng có nhiều bản được đặt theo tên tiếng Việt, do tiếp thu ảnh hưởng từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp.

Trong mỗi bản có những họ là gốc Tày cổ, nhưng cũng có những họ là gốc Kinh bị Tày hóa. Đặc biệt, từ sau những năm 60 của thế kỷ XX, thực hiện chủ trương xây dựng kinh tế mới của Đảng và Nhà nước, đã có sự biến đối trong thành phần dân cư của các thôn, bản. Hầu hết các thôn, bản gần trung tâm xã hoặc gần trục giao thông đều có sự xen cư giữa người Tày với người Kinh, thậm chí, trong cùng một bản có người Tày, Kinh và Dao cư trú.

Chế độ tư hữu ruộng đất của người Tày ở Thái Nguyên đã được xác lập từ lây. Tuy nhiên, tàn dư của ruộng đất công vẫn tồn tại trong các thôn bản. Đó là đất hương hỏa cho các đền miếu.

Trước năm 1954, ở các vùng người Tày Thái Nguyên, tuy có hiện tượng đồng ruộng tập trung vào tay phú nông, song diễn ra không gay gắt như ở vùng đồng bằng. Đặc biệt, trong bối cảnh Thái Nguyên là vùng tự do nên người nông dân Tày vẫn có đất ruộng, nương rẫy để canh tác.

Đầu năm 60 của thế kỷ XX, các HTX nông nghiệp đã được xây dựng trên cơ sở phạm vi thôn bản hoặc liên thôn bản, đất đai được tập trung vào các tổ chức kinh tế tập thể, do các ban quản trị điều hành và tổ chức sản xuất. Sau khoán 10, nhất là sau năm 1993, khi Luật Đất đai ra đời, do có sự buông lỏng quản lý HTX đã dẫn đến hiện tượng tranh chấp đất xảy ra tại một số địa phương, nhưng về sau đã được cấp ủy, chính quyền giải quyết ổn thỏa.

Xưa kia, mỗi bản Tày đều có thiết chế tự quản riêng, dựa trên cơ sở của tập quán Pháp. Tuy nhiên, trong bối cảnh của một xã hội đã có sự phân hóa giai cấp, cho đến trước năm 1954, thiết chế tự quản của người Tày ở đây đã có sự thay đổi rõ rệt.

Dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, các bản Tày thường nằm dưới các thiết chế quan phương như châu, tổng, xã, bản. Đôi khi, những thôn bản lớn cũng được cấu trúc thành một xã trong bộ máy nhà nước với người đứng đầu là lý trưởng. Với những thôn bản nhỏ, chính quyền phong kiến cấp trên thường ghép hai, ba thôn bản lại thành một xã. Trong các thôn bản này, người đứng đầu được gọi là trưởng bản. Về chức năng, trưởng bản là đại diện cho thiết chế tự quản, thể hiện ý chí của cộng đồng, thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại đối với thôn bản và cấp trên. Từ một hình thức phi quan phương, trưởng bản ở hầu hết các thôn bản của người Tày đã trở thành một chức quan phương, một thành phần trong bộ máy cai trị của giai cấp phong kiến.

Trong quá trình hợp tác hóa, chức vị trưởng bản của người Tày hầu như bị xóa bỏ. Quyền điều hành các hoạt động chung của thôn bản được trao vào tay các chủ nhiệm HTX hay các đội trưởng sản xuất. Đến giữa những năm 90 của thế kỷ XX, với việc kiện toàn lại các tổ chức kinh tế trong khu vực nông nghiệp – nông thôn, Đảng và Nhà nước lại chủ trương tăng cường công tác quản lý cơ sở, chức năng trưởng bản được phục hồi với những chức năng và nhiệm vụ mới. Hiện tại, mỗi xóm bản đều có một trưởng xóm bản.

Chế độ sở hữu của người Tày ở đây gồm hai hình thức: sở hữu công cộng của xóm bản và sở hữu tư nhân. Thuộc về sở hữu công cộng bao gồm toàn bộ đất đai, rừng núi, sông ngòi và tài nguyên trong phạm vi thôn bản. Ngoài ra, còn có các công trình công cộng như đường sá, cầu cống, đền miếu… Sở hữu tư nhân gồm tất cả các tư liệu sản xuất: đất đai, nương rẫy đã và đang được sử dụng, khai thác của mỗi gia đình. Ngoài ra, còn có các tài sản khác như nhà cửa, các sản phẩm nông nghiệp, thủ công nghiệp, các loại đồ gia dụng… do các gia đình tạo nên. Trong các xóm bản còn có  những quy định liên quan đến việc bản vệ rừng, bảo vệ nguồn nước sản xuất cũng như sinh hoạt. Hiện nay, hầu hết các bản Tày đều đã xây dựng những quy ước riêng liên quan đến mọi khía cạnh của đời sống xã hội, từ việc bảo vệ rừng, phát triển sản xuất, bảo vệ mùa màng đến thực hiện nếp sống mới trong ma chay, cưới xin.

Quan hệ cộng đồng là đặc trưng nổi bật trong các xóm bản của người Tay. Người dân Tày trong các xóm bản có những mối liên quan chặt chẽ trong tất cả các khía cạnh của đời sống, từ lao động sản xuất, các quá trình vật chất đến đời sống tinh thần và tôn giáo tín ngưỡng. Không chỉ duy trì quan hệ dòng họ, thân tộc, thích tộc, người Tày còn đặc biệt coi trọng tình làng nghĩa xóm. Bất kể các công việc quan trọng của mỗi đời người (làm nhà mới, cưới xin, tang ma, …) đều được coi là công việc chung của cả cộng đồng. Đặc biệt, từ xưa một số địa phương người Tày vẫn duy trì một hình thức tổ chức xã hội gọi là phe, một tổ chức chuyên lo việc tang ma, sau này, phe đã tham gia vào việc tổ chức, điều hành nhiều hoạt động khác như cưới xin, làm nhà mới; thậm chí, có khi phe còn đứng ra giải quyết những khúc mắc giữa các thành viên với nhau. Các dịp sinh hoạt cộng đồng đều được coi là một cơ hội thắt chặt tình đoàn kết gắn bó xóm giềng, thôn bản. Thông qua đó, ý thức về một tộc người càng được củng cố và nâng cao.

 Hoàng Minh Thắng

Đôi nét về tục ngữ, thành ngữ của dân tộc Tày, Nùng ở huyện Na Rì (Đinh Thị Thuyến)


Huyện Na Rì nằm ở phía đông của tỉnh Bắc Kạn, ở vào vị trí cách biệt sâu trong nội địa, cách trung tâm tỉnh lỵ (thị xã Bắc Kạn) 70km, địa hình phức tạp, nhiều núi cao, rừng sâu. Na Rì có 5 thành phần dân tộc chính: Tày, Nùng, Dao, Kinh, Mông.
Trong đó, dân Tộc Tày, Nùng chiếm trên 70% và có truyền thống lâu đời. Người Tày, Nùng Na Rì sống thành làng, bản ở vùng thung lũng và thường sống tập trung thành dòng họ. Nghề chính của họ là nông nghiệp. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, xuất hiện nhiều người Tày, Nùng ở đây làm nghề khác nhưng nông nghiệp vẫn là chủ yếu.
Cùng với đặc điểm vùng, phương thức canh tác, truyền thống văn hoá lâu đời, người Tày, Nùng đã đúc kết được một kho tàng tục ngữ, thành ngữ rất phong phú, đa dạng, được lưu truyền trong dân gian bằng con đường truyền miệng. Thông qua tục ngữ, thành ngữ có thể thấy, người Tày, Nùng Na Rì từ xưa có vốn hiểu biết sâu sắc về tự nhiên, con người và xã hội, nhất là trong lao động sản xuất và quan hệ gia đình.
Thành ngữ, tục ngữ của người Tày, Nùng Na Rì thường gồm từ ba từ trở lên hoặc những đoản ngữ gắn với nhau theo quy tắc nhất định. Ví dụ câu: Pây rẩy mí pà ma, pây nà mí pà đếch, vần của âm tiết thứ năm của phần thứ nhất ma nhịp với âm tiết thứ hai nà ở phần thứ hai.
Về ngữ nghĩa, tục ngữ, thành ngữ của người Tày, Nùng Na Rì được cấu tạo theo lối so sánh, ẩn dụ, hoán dụ… như:Ca đăm cắp ca đáng củng ca/Khẩu rẩy cắp khẩu nà củng khẩu/Cần đây cắp cần xẩu củng cần (Dịch là: Quạ đen với quạ khoang cũng là quạ/Thóc ruộng với thóc nương cũng là thóc /Người đẹp với người xấu cũng là người.)
Người Tày, Nùng huyện Na Rì từ xa xưa đã có rất nhiều những câu tục ngữ, thành ngữ về lao động sản xuất và quan hệ gia đình được lưu truyền cho đến ngày nay, trong từng bản làng, từng gia đình.
Thứ nhất là thành ngữ, tục về kinh nghiệm lao động, sản xuất. Để một vụ mùa lúa, ngô, khoai, sắn… được thu hoạch thì người nông dân ở đây phải bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức. Họ phải có những vốn hiểu biết nhất định về thời tiết thì mới có thể có những mùa vụ kết quả. Khi khoa học và các phương tiện thông tin đại chúng chưa phát triển như ngày nay thì họ dựa vào việc quan sát sự biến chuyển của vạn vật, từ năm này qua năm khác, đời này qua đời khác, phát hiện ra quy luật và lưu truyền lại cho thế hệ sau. Nông nghiệp ở đây phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Vì vậy, thời tiết có ý nghĩa hết sức quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của những người làm nghề nông. Họ quan sát các hiện tượng về sự thay đổi của thời tiết và tìm ra sự tương quan giữa hiện tượng này với hiện tượng kia. Quan sát hiện tượng về mây, họ rút ra được kết luận về mưa, nắng: Phả phạ kẻo mừa keo, khẩu tèo khửn các/Phả phạ kẻo mừa hác khẩu thác chàn (Nghĩa là:Mây kéo về nam, ai có thóc phơi phải thu dọn ngay (trời sắp mưa to);/Mây kéo về bắc, về đổ thóc ra sàn phơi (trời nắng)).
Hay nhìn quầng trăng, họ cũng rút ra được kết luận về mưa, nắng: Quằng lếch noòng, quằng toòng lẹng (Nghĩa là:Vầng trăng quầng sẫm mưa lũ to; Vầng trăng có quầng sáng thì hạn).
Làm nghề nông nghiệp, họ không chỉ tìm ra những quy luật về thời tiết mà họ còn phải biết vận dụng điều đó để tìm ra mối tương quan giữa sự thay đổi của thời tiết với sản xuất để có một mùa vụ bội thu.


Trong một mùa vụ, họ phải thực hiện cả quy trình khép kín, từ khi bắt đầu đến ra sản phẩm, như một vụ lúa: bắt đầu từ cày, bừa, cấy, làm cỏ, gặt, đến bảo quản… nên mỗi giai đoạn họ đúc kết được kiến thức riêng. Ví dụ, việc cày ruộng không thể bừa bãi mà phải vào lúc lập đông thì mới có được mùa vụ tốt: Thây nà lập đông, khẩn thuổn chang tồng, lậm cằn nưa, phưa cằn tẩ. (Nghĩa là: Cày ruộng vào lúc lập đông, thóc lúa đầy đồng, nặng trĩu trên bờ suố)i.

Nếu không cấy ruộng đúng thời điểm tốt trong năm thì sẽ mất mùa: Đăm nà tảm ngoảng á, khẩu bấu quá chài chiêng. (Nghĩa là: Cấy ruộng lúc ve kêu (tháng 7), gạo không đủ ăn qua bữa trưa tết).

Về đất đai, họ có cách làm để có đất màu mỡ, phù hợp địa hình và giống cây trồng: Rầy óm chà, nà óm nặm (Nghĩa là: Làm rẫy phơi cành lá/Làm ruộng để cho đất ngấm nước).

Hay về việc chọn giống cây trồng, vật nuôi, người Tày, Nùng ở đây từ lâu đã có tư duy rất khoa học, giống không thể lấy lại sản phẩm cũ mà phải chọn những giống mới, tốt: Khẩu tối chả, mạ tối phằn (Nghĩa là: Làm ruộng thay giống lúa mới/Nuôi ngựa thay giống mới).

Trong gieo trồng, đồng bào cũng rất chú ý đến kỹ thuật, họ có câu: Khinh lao ngược, phước lao slưa. (Nghĩa là: Gừng sợ thuồng luồng (phải trồng nông)/Khoai sọ sợ hổ (phải trồng sâu).


Có thể nói, qua các câu thành ngữ, tục ngữ của người Tày, Nùng huyện Na Rỳ trên đã có thể thấy được người dân ở đây có những kinh nghiệm rất sâu sắc, khoa học, chính xác trong sản xuất nông nghiệp. Từ cách quan sát và đúc kết kinh nghiệm, họ tìm những câu nói vần âm và dùng cách so sánh, liên tưởng… để đồng bào dân tộc mình có thể thuộc nhanh và lưu truyền dễ dàng.

Thứ hai, về quan hệ gia đình, người Tày, Nùng nói chung, và ở huyện Na Rỳ nói riêng, họ rất coi trọng về nhân cách con người, về cách ứng xử giữa các thành viên trong gia đình. Những câu tục ngữ, thành ngữ thường mang ý nghĩa răn dạy, nhắc nhở để mỗi người trong gia đình của mình có thể hoàn thiện hơn.

Trước hết là quan hệ cha mẹ - con cái. Đạo làm con là phải biết nhớ ơn công lao của cha mẹ đã sinh thành và nuôi nấng ta nên người. Họ dùng những hình ảnh về núi sông hùng vĩ để miêu tả công lao to lớn của cha mẹ:
Khuý mạ khửn keng chắng chắc công pèng pò mè
Nghĩa là: Cưỡi ngựa lên đèo cao mới biết công lao bố mẹ.
Làm con phải biết nghe lời cha mẹ thì mới nên người:
Tình cằm pò mè đảy kin, tình cằm bân đin pài nàn
Nghĩa là: Nghe lời cha mẹ thì làm ăn được/ nghe lời thiên hạ thì hết nghiệp.

Khi con cái được giàu sang, không được quên đi công lao của cha mẹ mất cả cuộc đời nuôi dưỡng, chăm sóc ta:Khúy mạ bấu tả pài lăng (Có ngựa cưỡi (khi giàu sang) không quên công ơn những người đằng sau mình (bố mẹ và những người giúp đỡ mình)).

Mối quan hệ chị em trong nhà cũng được thành ngữ, tục ngữ nhắc đến rất nhiều. Họ khẳng định không có tình cảm nào yêu thương và gắn bó hơn chị em ruột trong nhà:
Van bấu quá nựa pết, chếp điếp bấu quá pà nà.
Nghĩa là: Ngon không gì bằng thịt vịt, thân thiết không gì bằng chị em ruột.

Quan hệ vợ chồng cũng hết sức phải đầm ấm, họ chú ý nhiều đến sự đoàn kết giữa vợ chồng. Vợ chồng cả đời yêu thương nhau thì không sợ những việc lớn:
Phua mí điếp căn, mì kin quá slí

Ngoài ra, còn rất nhiều những câu tục ngữ, thành ngữ hay về lao động, sản xuất và gia đình đang tồn tại đời sống của đồng bào dân tộc Tày, Nùng huyện Na Rì. Người Tày, Nùng sống chung với nhau thành bản, thậm chí trong một gia đình nên văn hoá của hai tộc người có nhiều nét giao thoa, tương đồng. Họ cùng chung tay xây dựng cuộc sống từ xa xưa và coi nhau như anh em một nhà, rất hiếm khi tìm thấy một câu nói tỏ sự miệt thị, mâu thuẫn giữa hai tộc người này.
Tục ngữ, thành ngữ biểu hiện một sự trưởng thành nhất định về đời sống kinh tế, văn hoá và là sự tiếp nối tri thức của nhiều thế hệ, được sàng lọc, chứng minh qua thực tế và qua thời gian, nếu còn giá trị, nó sẽ tồn tại mãi.
Trong cuộc sống hiện đại hôm nay, xuất hiện nhiều loại hình truyền bá thông tin: sách, báo, truyền thanh, truyền hình… thậm chí Internet đi vào đến tận làng bản, làm mờ đi nhiều những nét văn hoá truyền thống. Tuy nhiên, các câu thành ngữ, tục ngữ vẫn có sức mạnh riêng mà không dễ dàng mất đi. Nhưng không ai giám khẳng định nó có thể sống mãi, bất diệt cùng thời gian mà rất cần những biện pháp bảo tồn, bảo lưu và phát huy để kho tàng tục ngữ, thành ngữ của tộc người Tày, Nùng không chỉ riêng huyện Na Rì được tồn tại mãi và lưu truyền đến những thế hệ tiếp theo.
Tài liệu tham khảo:
Văn hoá truyền thống Tày Nùng, nhiều tác giả, NXB Văn hoá dân tộc, 1993;
Từ điển thành ngữ, tục ngữ các dân tộc Tày, Triều Ân – Hoàng Quyết, NXB Văn hoá dân tộc, 1996;
Công trình nghiên cứu “Sưu tầm, nghiên cứu – bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống các dân tộc huyện Na Rỳ, tỉnh Bắc Kạn”, Triệu Thiêm Cao và các cộng sự, 1999.

Đinh Thị Tuyến

Huyện Na Rì nằm ở phía đông của tỉnh Bắc Kạn, ở vào vị trí cách biệt sâu trong nội địa, cách trung tâm tỉnh lỵ (thị xã Bắc Kạn) 70km, địa hình phức tạp, nhiều núi cao, rừng sâu. Na Rì có 5 thành phần dân tộc chính: Tày, Nùng, Dao, Kinh, Mông.
Trong đó, dân Tộc Tày, Nùng chiếm trên 70% và có truyền thống lâu đời. Người Tày, Nùng Na Rì sống thành làng, bản ở vùng thung lũng và thường sống tập trung thành dòng họ. Nghề chính của họ là nông nghiệp. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, xuất hiện nhiều người Tày, Nùng ở đây làm nghề khác nhưng nông nghiệp vẫn là chủ yếu.
Cùng với đặc điểm vùng, phương thức canh tác, truyền thống văn hoá lâu đời, người Tày, Nùng đã đúc kết được một kho tàng tục ngữ, thành ngữ rất phong phú, đa dạng, được lưu truyền trong dân gian bằng con đường truyền miệng. Thông qua tục ngữ, thành ngữ có thể thấy, người Tày, Nùng Na Rì từ xưa có vốn hiểu biết sâu sắc về tự nhiên, con người và xã hội, nhất là trong lao động sản xuất và quan hệ gia đình.
Thành ngữ, tục ngữ của người Tày, Nùng Na Rì thường gồm từ ba từ trở lên hoặc những đoản ngữ gắn với nhau theo quy tắc nhất định. Ví dụ câu: Pây rẩy mí pà ma, pây nà mí pà đếch, vần của âm tiết thứ năm của phần thứ nhất ma nhịp với âm tiết thứ hai nà ở phần thứ hai.
Về ngữ nghĩa, tục ngữ, thành ngữ của người Tày, Nùng Na Rì được cấu tạo theo lối so sánh, ẩn dụ, hoán dụ… như:Ca đăm cắp ca đáng củng ca/Khẩu rẩy cắp khẩu nà củng khẩu/Cần đây cắp cần xẩu củng cần (Dịch là: Quạ đen với quạ khoang cũng là quạ/Thóc ruộng với thóc nương cũng là thóc /Người đẹp với người xấu cũng là người.)
Người Tày, Nùng huyện Na Rì từ xa xưa đã có rất nhiều những câu tục ngữ, thành ngữ về lao động sản xuất và quan hệ gia đình được lưu truyền cho đến ngày nay, trong từng bản làng, từng gia đình.
Thứ nhất là thành ngữ, tục về kinh nghiệm lao động, sản xuất. Để một vụ mùa lúa, ngô, khoai, sắn… được thu hoạch thì người nông dân ở đây phải bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức. Họ phải có những vốn hiểu biết nhất định về thời tiết thì mới có thể có những mùa vụ kết quả. Khi khoa học và các phương tiện thông tin đại chúng chưa phát triển như ngày nay thì họ dựa vào việc quan sát sự biến chuyển của vạn vật, từ năm này qua năm khác, đời này qua đời khác, phát hiện ra quy luật và lưu truyền lại cho thế hệ sau. Nông nghiệp ở đây phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Vì vậy, thời tiết có ý nghĩa hết sức quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của những người làm nghề nông. Họ quan sát các hiện tượng về sự thay đổi của thời tiết và tìm ra sự tương quan giữa hiện tượng này với hiện tượng kia. Quan sát hiện tượng về mây, họ rút ra được kết luận về mưa, nắng: Phả phạ kẻo mừa keo, khẩu tèo khửn các/Phả phạ kẻo mừa hác khẩu thác chàn (Nghĩa là:Mây kéo về nam, ai có thóc phơi phải thu dọn ngay (trời sắp mưa to);/Mây kéo về bắc, về đổ thóc ra sàn phơi (trời nắng)).
Hay nhìn quầng trăng, họ cũng rút ra được kết luận về mưa, nắng: Quằng lếch noòng, quằng toòng lẹng (Nghĩa là:Vầng trăng quầng sẫm mưa lũ to; Vầng trăng có quầng sáng thì hạn).
Làm nghề nông nghiệp, họ không chỉ tìm ra những quy luật về thời tiết mà họ còn phải biết vận dụng điều đó để tìm ra mối tương quan giữa sự thay đổi của thời tiết với sản xuất để có một mùa vụ bội thu.


Trong một mùa vụ, họ phải thực hiện cả quy trình khép kín, từ khi bắt đầu đến ra sản phẩm, như một vụ lúa: bắt đầu từ cày, bừa, cấy, làm cỏ, gặt, đến bảo quản… nên mỗi giai đoạn họ đúc kết được kiến thức riêng. Ví dụ, việc cày ruộng không thể bừa bãi mà phải vào lúc lập đông thì mới có được mùa vụ tốt: Thây nà lập đông, khẩn thuổn chang tồng, lậm cằn nưa, phưa cằn tẩ. (Nghĩa là: Cày ruộng vào lúc lập đông, thóc lúa đầy đồng, nặng trĩu trên bờ suố)i.

Nếu không cấy ruộng đúng thời điểm tốt trong năm thì sẽ mất mùa: Đăm nà tảm ngoảng á, khẩu bấu quá chài chiêng. (Nghĩa là: Cấy ruộng lúc ve kêu (tháng 7), gạo không đủ ăn qua bữa trưa tết).

Về đất đai, họ có cách làm để có đất màu mỡ, phù hợp địa hình và giống cây trồng: Rầy óm chà, nà óm nặm (Nghĩa là: Làm rẫy phơi cành lá/Làm ruộng để cho đất ngấm nước).

Hay về việc chọn giống cây trồng, vật nuôi, người Tày, Nùng ở đây từ lâu đã có tư duy rất khoa học, giống không thể lấy lại sản phẩm cũ mà phải chọn những giống mới, tốt: Khẩu tối chả, mạ tối phằn (Nghĩa là: Làm ruộng thay giống lúa mới/Nuôi ngựa thay giống mới).

Trong gieo trồng, đồng bào cũng rất chú ý đến kỹ thuật, họ có câu: Khinh lao ngược, phước lao slưa. (Nghĩa là: Gừng sợ thuồng luồng (phải trồng nông)/Khoai sọ sợ hổ (phải trồng sâu).


Có thể nói, qua các câu thành ngữ, tục ngữ của người Tày, Nùng huyện Na Rỳ trên đã có thể thấy được người dân ở đây có những kinh nghiệm rất sâu sắc, khoa học, chính xác trong sản xuất nông nghiệp. Từ cách quan sát và đúc kết kinh nghiệm, họ tìm những câu nói vần âm và dùng cách so sánh, liên tưởng… để đồng bào dân tộc mình có thể thuộc nhanh và lưu truyền dễ dàng.

Thứ hai, về quan hệ gia đình, người Tày, Nùng nói chung, và ở huyện Na Rỳ nói riêng, họ rất coi trọng về nhân cách con người, về cách ứng xử giữa các thành viên trong gia đình. Những câu tục ngữ, thành ngữ thường mang ý nghĩa răn dạy, nhắc nhở để mỗi người trong gia đình của mình có thể hoàn thiện hơn.

Trước hết là quan hệ cha mẹ - con cái. Đạo làm con là phải biết nhớ ơn công lao của cha mẹ đã sinh thành và nuôi nấng ta nên người. Họ dùng những hình ảnh về núi sông hùng vĩ để miêu tả công lao to lớn của cha mẹ:
Khuý mạ khửn keng chắng chắc công pèng pò mè
Nghĩa là: Cưỡi ngựa lên đèo cao mới biết công lao bố mẹ.
Làm con phải biết nghe lời cha mẹ thì mới nên người:
Tình cằm pò mè đảy kin, tình cằm bân đin pài nàn
Nghĩa là: Nghe lời cha mẹ thì làm ăn được/ nghe lời thiên hạ thì hết nghiệp.

Khi con cái được giàu sang, không được quên đi công lao của cha mẹ mất cả cuộc đời nuôi dưỡng, chăm sóc ta:Khúy mạ bấu tả pài lăng (Có ngựa cưỡi (khi giàu sang) không quên công ơn những người đằng sau mình (bố mẹ và những người giúp đỡ mình)).

Mối quan hệ chị em trong nhà cũng được thành ngữ, tục ngữ nhắc đến rất nhiều. Họ khẳng định không có tình cảm nào yêu thương và gắn bó hơn chị em ruột trong nhà:
Van bấu quá nựa pết, chếp điếp bấu quá pà nà.
Nghĩa là: Ngon không gì bằng thịt vịt, thân thiết không gì bằng chị em ruột.

Quan hệ vợ chồng cũng hết sức phải đầm ấm, họ chú ý nhiều đến sự đoàn kết giữa vợ chồng. Vợ chồng cả đời yêu thương nhau thì không sợ những việc lớn:
Phua mí điếp căn, mì kin quá slí

Ngoài ra, còn rất nhiều những câu tục ngữ, thành ngữ hay về lao động, sản xuất và gia đình đang tồn tại đời sống của đồng bào dân tộc Tày, Nùng huyện Na Rì. Người Tày, Nùng sống chung với nhau thành bản, thậm chí trong một gia đình nên văn hoá của hai tộc người có nhiều nét giao thoa, tương đồng. Họ cùng chung tay xây dựng cuộc sống từ xa xưa và coi nhau như anh em một nhà, rất hiếm khi tìm thấy một câu nói tỏ sự miệt thị, mâu thuẫn giữa hai tộc người này.
Tục ngữ, thành ngữ biểu hiện một sự trưởng thành nhất định về đời sống kinh tế, văn hoá và là sự tiếp nối tri thức của nhiều thế hệ, được sàng lọc, chứng minh qua thực tế và qua thời gian, nếu còn giá trị, nó sẽ tồn tại mãi.
Trong cuộc sống hiện đại hôm nay, xuất hiện nhiều loại hình truyền bá thông tin: sách, báo, truyền thanh, truyền hình… thậm chí Internet đi vào đến tận làng bản, làm mờ đi nhiều những nét văn hoá truyền thống. Tuy nhiên, các câu thành ngữ, tục ngữ vẫn có sức mạnh riêng mà không dễ dàng mất đi. Nhưng không ai giám khẳng định nó có thể sống mãi, bất diệt cùng thời gian mà rất cần những biện pháp bảo tồn, bảo lưu và phát huy để kho tàng tục ngữ, thành ngữ của tộc người Tày, Nùng không chỉ riêng huyện Na Rì được tồn tại mãi và lưu truyền đến những thế hệ tiếp theo.
Tài liệu tham khảo:
Văn hoá truyền thống Tày Nùng, nhiều tác giả, NXB Văn hoá dân tộc, 1993;
Từ điển thành ngữ, tục ngữ các dân tộc Tày, Triều Ân – Hoàng Quyết, NXB Văn hoá dân tộc, 1996;
Công trình nghiên cứu “Sưu tầm, nghiên cứu – bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống các dân tộc huyện Na Rỳ, tỉnh Bắc Kạn”, Triệu Thiêm Cao và các cộng sự, 1999.

Đinh Thị Tuyến

KINH NGHIỆM SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP QUA TỤC NGỮ NGƯỜI DÂN TỘC TÀY (QUANG HÀ)


Huyện Na Rì nằm ở phía đông của tỉnh Bắc Kạn, ở vào vị trí cách biệt sâu trong nội địa, cách trung tâm tỉnh lỵ (thị xã Bắc Kạn) 70km, địa hình phức tạp, nhiều núi cao, rừng sâu. Na Rì có 5 thành phần dân tộc chính: Tày, Nùng, Dao, Kinh, Mông.
Trong đó, dân Tộc Tày, Nùng chiếm trên 70% và có truyền thống lâu đời. Người Tày, Nùng Na Rì sống thành làng, bản ở vùng thung lũng và thường sống tập trung thành dòng họ. Nghề chính của họ là nông nghiệp. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, xuất hiện nhiều người Tày, Nùng ở đây làm nghề khác nhưng nông nghiệp vẫn là chủ yếu.
Cùng với đặc điểm vùng, phương thức canh tác, truyền thống văn hoá lâu đời, người Tày, Nùng đã đúc kết được một kho tàng tục ngữ, thành ngữ rất phong phú, đa dạng, được lưu truyền trong dân gian bằng con đường truyền miệng. Thông qua tục ngữ, thành ngữ có thể thấy, người Tày, Nùng Na Rì từ xưa có vốn hiểu biết sâu sắc về tự nhiên, con người và xã hội, nhất là trong lao động sản xuất và quan hệ gia đình.
Thành ngữ, tục ngữ của người Tày, Nùng Na Rì thường gồm từ ba từ trở lên hoặc những đoản ngữ gắn với nhau theo quy tắc nhất định. Ví dụ câu: Pây rẩy mí pà ma, pây nà mí pà đếch, vần của âm tiết thứ năm của phần thứ nhất ma nhịp với âm tiết thứ hai nà ở phần thứ hai.
Về ngữ nghĩa, tục ngữ, thành ngữ của người Tày, Nùng Na Rì được cấu tạo theo lối so sánh, ẩn dụ, hoán dụ… như:Ca đăm cắp ca đáng củng ca/Khẩu rẩy cắp khẩu nà củng khẩu/Cần đây cắp cần xẩu củng cần (Dịch là: Quạ đen với quạ khoang cũng là quạ/Thóc ruộng với thóc nương cũng là thóc /Người đẹp với người xấu cũng là người.)
Người Tày, Nùng huyện Na Rì từ xa xưa đã có rất nhiều những câu tục ngữ, thành ngữ về lao động sản xuất và quan hệ gia đình được lưu truyền cho đến ngày nay, trong từng bản làng, từng gia đình.
Thứ nhất là thành ngữ, tục về kinh nghiệm lao động, sản xuất. Để một vụ mùa lúa, ngô, khoai, sắn… được thu hoạch thì người nông dân ở đây phải bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức. Họ phải có những vốn hiểu biết nhất định về thời tiết thì mới có thể có những mùa vụ kết quả. Khi khoa học và các phương tiện thông tin đại chúng chưa phát triển như ngày nay thì họ dựa vào việc quan sát sự biến chuyển của vạn vật, từ năm này qua năm khác, đời này qua đời khác, phát hiện ra quy luật và lưu truyền lại cho thế hệ sau. Nông nghiệp ở đây phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Vì vậy, thời tiết có ý nghĩa hết sức quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của những người làm nghề nông. Họ quan sát các hiện tượng về sự thay đổi của thời tiết và tìm ra sự tương quan giữa hiện tượng này với hiện tượng kia. Quan sát hiện tượng về mây, họ rút ra được kết luận về mưa, nắng: Phả phạ kẻo mừa keo, khẩu tèo khửn các/Phả phạ kẻo mừa hác khẩu thác chàn (Nghĩa là:Mây kéo về nam, ai có thóc phơi phải thu dọn ngay (trời sắp mưa to);/Mây kéo về bắc, về đổ thóc ra sàn phơi (trời nắng)).
Hay nhìn quầng trăng, họ cũng rút ra được kết luận về mưa, nắng: Quằng lếch noòng, quằng toòng lẹng (Nghĩa là:Vầng trăng quầng sẫm mưa lũ to; Vầng trăng có quầng sáng thì hạn).
Làm nghề nông nghiệp, họ không chỉ tìm ra những quy luật về thời tiết mà họ còn phải biết vận dụng điều đó để tìm ra mối tương quan giữa sự thay đổi của thời tiết với sản xuất để có một mùa vụ bội thu.


Trong một mùa vụ, họ phải thực hiện cả quy trình khép kín, từ khi bắt đầu đến ra sản phẩm, như một vụ lúa: bắt đầu từ cày, bừa, cấy, làm cỏ, gặt, đến bảo quản… nên mỗi giai đoạn họ đúc kết được kiến thức riêng. Ví dụ, việc cày ruộng không thể bừa bãi mà phải vào lúc lập đông thì mới có được mùa vụ tốt: Thây nà lập đông, khẩn thuổn chang tồng, lậm cằn nưa, phưa cằn tẩ. (Nghĩa là: Cày ruộng vào lúc lập đông, thóc lúa đầy đồng, nặng trĩu trên bờ suố)i.

Nếu không cấy ruộng đúng thời điểm tốt trong năm thì sẽ mất mùa: Đăm nà tảm ngoảng á, khẩu bấu quá chài chiêng. (Nghĩa là: Cấy ruộng lúc ve kêu (tháng 7), gạo không đủ ăn qua bữa trưa tết).

Về đất đai, họ có cách làm để có đất màu mỡ, phù hợp địa hình và giống cây trồng: Rầy óm chà, nà óm nặm (Nghĩa là: Làm rẫy phơi cành lá/Làm ruộng để cho đất ngấm nước).

Hay về việc chọn giống cây trồng, vật nuôi, người Tày, Nùng ở đây từ lâu đã có tư duy rất khoa học, giống không thể lấy lại sản phẩm cũ mà phải chọn những giống mới, tốt: Khẩu tối chả, mạ tối phằn (Nghĩa là: Làm ruộng thay giống lúa mới/Nuôi ngựa thay giống mới).

Trong gieo trồng, đồng bào cũng rất chú ý đến kỹ thuật, họ có câu: Khinh lao ngược, phước lao slưa. (Nghĩa là: Gừng sợ thuồng luồng (phải trồng nông)/Khoai sọ sợ hổ (phải trồng sâu).


Có thể nói, qua các câu thành ngữ, tục ngữ của người Tày, Nùng huyện Na Rỳ trên đã có thể thấy được người dân ở đây có những kinh nghiệm rất sâu sắc, khoa học, chính xác trong sản xuất nông nghiệp. Từ cách quan sát và đúc kết kinh nghiệm, họ tìm những câu nói vần âm và dùng cách so sánh, liên tưởng… để đồng bào dân tộc mình có thể thuộc nhanh và lưu truyền dễ dàng.

Thứ hai, về quan hệ gia đình, người Tày, Nùng nói chung, và ở huyện Na Rỳ nói riêng, họ rất coi trọng về nhân cách con người, về cách ứng xử giữa các thành viên trong gia đình. Những câu tục ngữ, thành ngữ thường mang ý nghĩa răn dạy, nhắc nhở để mỗi người trong gia đình của mình có thể hoàn thiện hơn.

Trước hết là quan hệ cha mẹ - con cái. Đạo làm con là phải biết nhớ ơn công lao của cha mẹ đã sinh thành và nuôi nấng ta nên người. Họ dùng những hình ảnh về núi sông hùng vĩ để miêu tả công lao to lớn của cha mẹ:
Khuý mạ khửn keng chắng chắc công pèng pò mè
Nghĩa là: Cưỡi ngựa lên đèo cao mới biết công lao bố mẹ.
Làm con phải biết nghe lời cha mẹ thì mới nên người:
Tình cằm pò mè đảy kin, tình cằm bân đin pài nàn
Nghĩa là: Nghe lời cha mẹ thì làm ăn được/ nghe lời thiên hạ thì hết nghiệp.

Khi con cái được giàu sang, không được quên đi công lao của cha mẹ mất cả cuộc đời nuôi dưỡng, chăm sóc ta:Khúy mạ bấu tả pài lăng (Có ngựa cưỡi (khi giàu sang) không quên công ơn những người đằng sau mình (bố mẹ và những người giúp đỡ mình)).

Mối quan hệ chị em trong nhà cũng được thành ngữ, tục ngữ nhắc đến rất nhiều. Họ khẳng định không có tình cảm nào yêu thương và gắn bó hơn chị em ruột trong nhà:
Van bấu quá nựa pết, chếp điếp bấu quá pà nà.
Nghĩa là: Ngon không gì bằng thịt vịt, thân thiết không gì bằng chị em ruột.

Quan hệ vợ chồng cũng hết sức phải đầm ấm, họ chú ý nhiều đến sự đoàn kết giữa vợ chồng. Vợ chồng cả đời yêu thương nhau thì không sợ những việc lớn:
Phua mí điếp căn, mì kin quá slí

Ngoài ra, còn rất nhiều những câu tục ngữ, thành ngữ hay về lao động, sản xuất và gia đình đang tồn tại đời sống của đồng bào dân tộc Tày, Nùng huyện Na Rì. Người Tày, Nùng sống chung với nhau thành bản, thậm chí trong một gia đình nên văn hoá của hai tộc người có nhiều nét giao thoa, tương đồng. Họ cùng chung tay xây dựng cuộc sống từ xa xưa và coi nhau như anh em một nhà, rất hiếm khi tìm thấy một câu nói tỏ sự miệt thị, mâu thuẫn giữa hai tộc người này.
Tục ngữ, thành ngữ biểu hiện một sự trưởng thành nhất định về đời sống kinh tế, văn hoá và là sự tiếp nối tri thức của nhiều thế hệ, được sàng lọc, chứng minh qua thực tế và qua thời gian, nếu còn giá trị, nó sẽ tồn tại mãi.
Trong cuộc sống hiện đại hôm nay, xuất hiện nhiều loại hình truyền bá thông tin: sách, báo, truyền thanh, truyền hình… thậm chí Internet đi vào đến tận làng bản, làm mờ đi nhiều những nét văn hoá truyền thống. Tuy nhiên, các câu thành ngữ, tục ngữ vẫn có sức mạnh riêng mà không dễ dàng mất đi. Nhưng không ai giám khẳng định nó có thể sống mãi, bất diệt cùng thời gian mà rất cần những biện pháp bảo tồn, bảo lưu và phát huy để kho tàng tục ngữ, thành ngữ của tộc người Tày, Nùng không chỉ riêng huyện Na Rì được tồn tại mãi và lưu truyền đến những thế hệ tiếp theo.
Tài liệu tham khảo:
Văn hoá truyền thống Tày Nùng, nhiều tác giả, NXB Văn hoá dân tộc, 1993;
Từ điển thành ngữ, tục ngữ các dân tộc Tày, Triều Ân – Hoàng Quyết, NXB Văn hoá dân tộc, 1996;
Công trình nghiên cứu “Sưu tầm, nghiên cứu – bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống các dân tộc huyện Na Rỳ, tỉnh Bắc Kạn”, Triệu Thiêm Cao và các cộng sự, 1999.

Đinh Thị Tuyến

Huyện Na Rì nằm ở phía đông của tỉnh Bắc Kạn, ở vào vị trí cách biệt sâu trong nội địa, cách trung tâm tỉnh lỵ (thị xã Bắc Kạn) 70km, địa hình phức tạp, nhiều núi cao, rừng sâu. Na Rì có 5 thành phần dân tộc chính: Tày, Nùng, Dao, Kinh, Mông.
Trong đó, dân Tộc Tày, Nùng chiếm trên 70% và có truyền thống lâu đời. Người Tày, Nùng Na Rì sống thành làng, bản ở vùng thung lũng và thường sống tập trung thành dòng họ. Nghề chính của họ là nông nghiệp. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, xuất hiện nhiều người Tày, Nùng ở đây làm nghề khác nhưng nông nghiệp vẫn là chủ yếu.
Cùng với đặc điểm vùng, phương thức canh tác, truyền thống văn hoá lâu đời, người Tày, Nùng đã đúc kết được một kho tàng tục ngữ, thành ngữ rất phong phú, đa dạng, được lưu truyền trong dân gian bằng con đường truyền miệng. Thông qua tục ngữ, thành ngữ có thể thấy, người Tày, Nùng Na Rì từ xưa có vốn hiểu biết sâu sắc về tự nhiên, con người và xã hội, nhất là trong lao động sản xuất và quan hệ gia đình.
Thành ngữ, tục ngữ của người Tày, Nùng Na Rì thường gồm từ ba từ trở lên hoặc những đoản ngữ gắn với nhau theo quy tắc nhất định. Ví dụ câu: Pây rẩy mí pà ma, pây nà mí pà đếch, vần của âm tiết thứ năm của phần thứ nhất ma nhịp với âm tiết thứ hai nà ở phần thứ hai.
Về ngữ nghĩa, tục ngữ, thành ngữ của người Tày, Nùng Na Rì được cấu tạo theo lối so sánh, ẩn dụ, hoán dụ… như:Ca đăm cắp ca đáng củng ca/Khẩu rẩy cắp khẩu nà củng khẩu/Cần đây cắp cần xẩu củng cần (Dịch là: Quạ đen với quạ khoang cũng là quạ/Thóc ruộng với thóc nương cũng là thóc /Người đẹp với người xấu cũng là người.)
Người Tày, Nùng huyện Na Rì từ xa xưa đã có rất nhiều những câu tục ngữ, thành ngữ về lao động sản xuất và quan hệ gia đình được lưu truyền cho đến ngày nay, trong từng bản làng, từng gia đình.
Thứ nhất là thành ngữ, tục về kinh nghiệm lao động, sản xuất. Để một vụ mùa lúa, ngô, khoai, sắn… được thu hoạch thì người nông dân ở đây phải bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức. Họ phải có những vốn hiểu biết nhất định về thời tiết thì mới có thể có những mùa vụ kết quả. Khi khoa học và các phương tiện thông tin đại chúng chưa phát triển như ngày nay thì họ dựa vào việc quan sát sự biến chuyển của vạn vật, từ năm này qua năm khác, đời này qua đời khác, phát hiện ra quy luật và lưu truyền lại cho thế hệ sau. Nông nghiệp ở đây phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Vì vậy, thời tiết có ý nghĩa hết sức quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của những người làm nghề nông. Họ quan sát các hiện tượng về sự thay đổi của thời tiết và tìm ra sự tương quan giữa hiện tượng này với hiện tượng kia. Quan sát hiện tượng về mây, họ rút ra được kết luận về mưa, nắng: Phả phạ kẻo mừa keo, khẩu tèo khửn các/Phả phạ kẻo mừa hác khẩu thác chàn (Nghĩa là:Mây kéo về nam, ai có thóc phơi phải thu dọn ngay (trời sắp mưa to);/Mây kéo về bắc, về đổ thóc ra sàn phơi (trời nắng)).
Hay nhìn quầng trăng, họ cũng rút ra được kết luận về mưa, nắng: Quằng lếch noòng, quằng toòng lẹng (Nghĩa là:Vầng trăng quầng sẫm mưa lũ to; Vầng trăng có quầng sáng thì hạn).
Làm nghề nông nghiệp, họ không chỉ tìm ra những quy luật về thời tiết mà họ còn phải biết vận dụng điều đó để tìm ra mối tương quan giữa sự thay đổi của thời tiết với sản xuất để có một mùa vụ bội thu.


Trong một mùa vụ, họ phải thực hiện cả quy trình khép kín, từ khi bắt đầu đến ra sản phẩm, như một vụ lúa: bắt đầu từ cày, bừa, cấy, làm cỏ, gặt, đến bảo quản… nên mỗi giai đoạn họ đúc kết được kiến thức riêng. Ví dụ, việc cày ruộng không thể bừa bãi mà phải vào lúc lập đông thì mới có được mùa vụ tốt: Thây nà lập đông, khẩn thuổn chang tồng, lậm cằn nưa, phưa cằn tẩ. (Nghĩa là: Cày ruộng vào lúc lập đông, thóc lúa đầy đồng, nặng trĩu trên bờ suố)i.

Nếu không cấy ruộng đúng thời điểm tốt trong năm thì sẽ mất mùa: Đăm nà tảm ngoảng á, khẩu bấu quá chài chiêng. (Nghĩa là: Cấy ruộng lúc ve kêu (tháng 7), gạo không đủ ăn qua bữa trưa tết).

Về đất đai, họ có cách làm để có đất màu mỡ, phù hợp địa hình và giống cây trồng: Rầy óm chà, nà óm nặm (Nghĩa là: Làm rẫy phơi cành lá/Làm ruộng để cho đất ngấm nước).

Hay về việc chọn giống cây trồng, vật nuôi, người Tày, Nùng ở đây từ lâu đã có tư duy rất khoa học, giống không thể lấy lại sản phẩm cũ mà phải chọn những giống mới, tốt: Khẩu tối chả, mạ tối phằn (Nghĩa là: Làm ruộng thay giống lúa mới/Nuôi ngựa thay giống mới).

Trong gieo trồng, đồng bào cũng rất chú ý đến kỹ thuật, họ có câu: Khinh lao ngược, phước lao slưa. (Nghĩa là: Gừng sợ thuồng luồng (phải trồng nông)/Khoai sọ sợ hổ (phải trồng sâu).


Có thể nói, qua các câu thành ngữ, tục ngữ của người Tày, Nùng huyện Na Rỳ trên đã có thể thấy được người dân ở đây có những kinh nghiệm rất sâu sắc, khoa học, chính xác trong sản xuất nông nghiệp. Từ cách quan sát và đúc kết kinh nghiệm, họ tìm những câu nói vần âm và dùng cách so sánh, liên tưởng… để đồng bào dân tộc mình có thể thuộc nhanh và lưu truyền dễ dàng.

Thứ hai, về quan hệ gia đình, người Tày, Nùng nói chung, và ở huyện Na Rỳ nói riêng, họ rất coi trọng về nhân cách con người, về cách ứng xử giữa các thành viên trong gia đình. Những câu tục ngữ, thành ngữ thường mang ý nghĩa răn dạy, nhắc nhở để mỗi người trong gia đình của mình có thể hoàn thiện hơn.

Trước hết là quan hệ cha mẹ - con cái. Đạo làm con là phải biết nhớ ơn công lao của cha mẹ đã sinh thành và nuôi nấng ta nên người. Họ dùng những hình ảnh về núi sông hùng vĩ để miêu tả công lao to lớn của cha mẹ:
Khuý mạ khửn keng chắng chắc công pèng pò mè
Nghĩa là: Cưỡi ngựa lên đèo cao mới biết công lao bố mẹ.
Làm con phải biết nghe lời cha mẹ thì mới nên người:
Tình cằm pò mè đảy kin, tình cằm bân đin pài nàn
Nghĩa là: Nghe lời cha mẹ thì làm ăn được/ nghe lời thiên hạ thì hết nghiệp.

Khi con cái được giàu sang, không được quên đi công lao của cha mẹ mất cả cuộc đời nuôi dưỡng, chăm sóc ta:Khúy mạ bấu tả pài lăng (Có ngựa cưỡi (khi giàu sang) không quên công ơn những người đằng sau mình (bố mẹ và những người giúp đỡ mình)).

Mối quan hệ chị em trong nhà cũng được thành ngữ, tục ngữ nhắc đến rất nhiều. Họ khẳng định không có tình cảm nào yêu thương và gắn bó hơn chị em ruột trong nhà:
Van bấu quá nựa pết, chếp điếp bấu quá pà nà.
Nghĩa là: Ngon không gì bằng thịt vịt, thân thiết không gì bằng chị em ruột.

Quan hệ vợ chồng cũng hết sức phải đầm ấm, họ chú ý nhiều đến sự đoàn kết giữa vợ chồng. Vợ chồng cả đời yêu thương nhau thì không sợ những việc lớn:
Phua mí điếp căn, mì kin quá slí

Ngoài ra, còn rất nhiều những câu tục ngữ, thành ngữ hay về lao động, sản xuất và gia đình đang tồn tại đời sống của đồng bào dân tộc Tày, Nùng huyện Na Rì. Người Tày, Nùng sống chung với nhau thành bản, thậm chí trong một gia đình nên văn hoá của hai tộc người có nhiều nét giao thoa, tương đồng. Họ cùng chung tay xây dựng cuộc sống từ xa xưa và coi nhau như anh em một nhà, rất hiếm khi tìm thấy một câu nói tỏ sự miệt thị, mâu thuẫn giữa hai tộc người này.
Tục ngữ, thành ngữ biểu hiện một sự trưởng thành nhất định về đời sống kinh tế, văn hoá và là sự tiếp nối tri thức của nhiều thế hệ, được sàng lọc, chứng minh qua thực tế và qua thời gian, nếu còn giá trị, nó sẽ tồn tại mãi.
Trong cuộc sống hiện đại hôm nay, xuất hiện nhiều loại hình truyền bá thông tin: sách, báo, truyền thanh, truyền hình… thậm chí Internet đi vào đến tận làng bản, làm mờ đi nhiều những nét văn hoá truyền thống. Tuy nhiên, các câu thành ngữ, tục ngữ vẫn có sức mạnh riêng mà không dễ dàng mất đi. Nhưng không ai giám khẳng định nó có thể sống mãi, bất diệt cùng thời gian mà rất cần những biện pháp bảo tồn, bảo lưu và phát huy để kho tàng tục ngữ, thành ngữ của tộc người Tày, Nùng không chỉ riêng huyện Na Rì được tồn tại mãi và lưu truyền đến những thế hệ tiếp theo.
Tài liệu tham khảo:
Văn hoá truyền thống Tày Nùng, nhiều tác giả, NXB Văn hoá dân tộc, 1993;
Từ điển thành ngữ, tục ngữ các dân tộc Tày, Triều Ân – Hoàng Quyết, NXB Văn hoá dân tộc, 1996;
Công trình nghiên cứu “Sưu tầm, nghiên cứu – bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống các dân tộc huyện Na Rỳ, tỉnh Bắc Kạn”, Triệu Thiêm Cao và các cộng sự, 1999.
A
Bà con dân tộc Tày huyện Lâm Bình tham gia nghi lễ xuống đồng tại Lễ hội Lồng tông năm 2017.

Dân tộc Tày có kho tàng tục ngữ, thành ngữ để khuyên răn, dạy bảo con người. Trong đó, có nhiều câu nói vần vè, giản dị đúc rút kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn như dự báo thời tiết, lựa chọn thời vụ sản xuất, cách thức trồng trọt…

Là một người tâm huyết với văn hóa Tày, ông Ma Phúc Tiến, thị trấn Vĩnh Lộc (Chiêm Hóa) chia sẻ, người Tày có phương thức canh tác, truyền thống văn hóa lâu đời. Để một vụ lúa, ngô, khoai, sắn… được thu hoạch thì người nông dân xưa kia phải bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức. Họ phải có vốn hiểu biết nhất định về thời tiết thì mới có được vụ mùa bội thu. Vì vậy, thời tiết có ý nghĩa hết sức quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của những người làm nghề nông. Họ rút ra: “Hiêng hói bên thung, mèng nhùng bên tắm, le phạ ái phuôn” (Đom đóm bay cao, muỗi bay thấp, trời sắp mưa); “Nạn khống phạ đét, quang kếch phạ phuôn” (Hươu rống trời  nắng, nai tác trời mưa)…
Người Tày tìm ra mối quan hệ giữa sự thay đổi thời tiết với quy trình sản xuất để có một mùa vụ thắng lợi. Họ thường nhắc nhở nhau: “Thây nà lập đông, khấu têm nà” (Cày ruộng vào lúc lập đông, thóc lúa đầy đồng) còn nếu không đúng thời điểm thì sẽ mất mùa: “Đăm nà khấu bươn chất, khấu mí đo kin” (Cấy ruộng lúc tháng 7, gạo không đủ ăn).
Sống hòa mình với thiên nhiên, các hiện tượng tự nhiên gần gũi quanh cuộc sống như: Quả chín, hoa nở, gà gáy… trở thành dấu hiệu để người Tày thực hiện đúng thời điểm canh tác. Ví dụ như: “Mác lót rường hang, mương phai lèo chướng” (Quả nhót đỏ trôn, mương phai lo sửa); “Mác phầy ốt rù đăng ván chả, mác phầy cắm hăm  mạ đăm nà” (Quả dâu da vừa lỗ mũi gieo mạ, dâu da tím dái ngựa cấy lúa).
Bên cạnh đó, người Tày có quan niệm rằng thành quả vụ mùa không hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên mà còn phụ thuộc vào ý thức của người nông dân. Họ nhắc nhở nhau rằng: “Pây tổng hết quan, mà rườn tắng pác, pây tổng hết khói, mà rườn đáy kin” (Ra đồng nhởn nhơ, về nhà trơ mõm, ra đồng chịu khó, về nhà có ăn); “Pây rẩy bấu pà ma, pây mà bấu pà đếnh” (Đi nương không mang chó, ra ruộng không mang trẻ); “Pỏ puôn pán mì ngần, lạo puôn đin mì khẩu” (Kẻ buôn bán có tiền, người cuốc đất có lúa).
Trải qua những vất vả “một nắng hai sương”, người nông dân thu hoạch vụ mùa thắng lợi. Người Tày không quên nhắn nhủ con cháu nhớ đến công lao người làm ra hạt lúa: “Mặt khẩu cấu mặt hứa” (hạt gạo chín hạt mồ hôi), “Pát khẩu cấu tẻo vài” (Bát cơm chín đường cày)…
Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển, người nông dân biết ứng dụng phương pháp canh tác mới, tuy nhiên những câu tục ngữ về kinh nghiệm sản xuất vẫn được người Tày áp dụng. Chị Nông Thị Hương, thôn Đồng Hương, xã Phúc Thịnh (Chiêm Hóa) cho biết, chị được bố mẹ dạy những kinh nghiệm quý giá chẳng hạn như để dự báo thời tiết, lựa chọn thời điểm sản xuất theo hiện tượng tự nhiên…
Qua kinh nghiệm thực tiễn, người nông dân đã đúc kết nên kho tàng kiến thức phong phú được truyền miệng từ thế hệ này qua thế hệ khác. Qua đó cho thấy, người Tày sống hòa đồng và có vốn hiểu biết sâu sắc về thiên nhiên.

Quang Hà
Bà con dân tộc Tày huyện Lâm Bình tham gia nghi lễ xuống đồng tại Lễ hội Lồng tông năm 2017.

Dân tộc Tày có kho tàng tục ngữ, thành ngữ để khuyên răn, dạy bảo con người. Trong đó, có nhiều câu nói vần vè, giản dị đúc rút kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn như dự báo thời tiết, lựa chọn thời vụ sản xuất, cách thức trồng trọt…

Là một người tâm huyết với văn hóa Tày, ông Ma Phúc Tiến, thị trấn Vĩnh Lộc (Chiêm Hóa) chia sẻ, người Tày có phương thức canh tác, truyền thống văn hóa lâu đời. Để một vụ lúa, ngô, khoai, sắn… được thu hoạch thì người nông dân xưa kia phải bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức. Họ phải có vốn hiểu biết nhất định về thời tiết thì mới có được vụ mùa bội thu. Vì vậy, thời tiết có ý nghĩa hết sức quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của những người làm nghề nông. Họ rút ra: “Hiêng hói bên thung, mèng nhùng bên tắm, le phạ ái phuôn” (Đom đóm bay cao, muỗi bay thấp, trời sắp mưa); “Nạn khống phạ đét, quang kếch phạ phuôn” (Hươu rống trời  nắng, nai tác trời mưa)…
Người Tày tìm ra mối quan hệ giữa sự thay đổi thời tiết với quy trình sản xuất để có một mùa vụ thắng lợi. Họ thường nhắc nhở nhau: “Thây nà lập đông, khấu têm nà” (Cày ruộng vào lúc lập đông, thóc lúa đầy đồng) còn nếu không đúng thời điểm thì sẽ mất mùa: “Đăm nà khấu bươn chất, khấu mí đo kin” (Cấy ruộng lúc tháng 7, gạo không đủ ăn).
Sống hòa mình với thiên nhiên, các hiện tượng tự nhiên gần gũi quanh cuộc sống như: Quả chín, hoa nở, gà gáy… trở thành dấu hiệu để người Tày thực hiện đúng thời điểm canh tác. Ví dụ như: “Mác lót rường hang, mương phai lèo chướng” (Quả nhót đỏ trôn, mương phai lo sửa); “Mác phầy ốt rù đăng ván chả, mác phầy cắm hăm  mạ đăm nà” (Quả dâu da vừa lỗ mũi gieo mạ, dâu da tím dái ngựa cấy lúa).
Bên cạnh đó, người Tày có quan niệm rằng thành quả vụ mùa không hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên mà còn phụ thuộc vào ý thức của người nông dân. Họ nhắc nhở nhau rằng: “Pây tổng hết quan, mà rườn tắng pác, pây tổng hết khói, mà rườn đáy kin” (Ra đồng nhởn nhơ, về nhà trơ mõm, ra đồng chịu khó, về nhà có ăn); “Pây rẩy bấu pà ma, pây mà bấu pà đếnh” (Đi nương không mang chó, ra ruộng không mang trẻ); “Pỏ puôn pán mì ngần, lạo puôn đin mì khẩu” (Kẻ buôn bán có tiền, người cuốc đất có lúa).
Trải qua những vất vả “một nắng hai sương”, người nông dân thu hoạch vụ mùa thắng lợi. Người Tày không quên nhắn nhủ con cháu nhớ đến công lao người làm ra hạt lúa: “Mặt khẩu cấu mặt hứa” (hạt gạo chín hạt mồ hôi), “Pát khẩu cấu tẻo vài” (Bát cơm chín đường cày)…
Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển, người nông dân biết ứng dụng phương pháp canh tác mới, tuy nhiên những câu tục ngữ về kinh nghiệm sản xuất vẫn được người Tày áp dụng. Chị Nông Thị Hương, thôn Đồng Hương, xã Phúc Thịnh (Chiêm Hóa) cho biết, chị được bố mẹ dạy những kinh nghiệm quý giá chẳng hạn như để dự báo thời tiết, lựa chọn thời điểm sản xuất theo hiện tượng tự nhiên…
Qua kinh nghiệm thực tiễn, người nông dân đã đúc kết nên kho tàng kiến thức phong phú được truyền miệng từ thế hệ này qua thế hệ khác. Qua đó cho thấy, người Tày sống hòa đồng và có vốn hiểu biết sâu sắc về thiên nhiên.

Quang Hà
Đinh Thị Tuyến

Phong tục văn hóa của dân tộc Tày (Hoàng Mộng Lân)

Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Họ có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng.

Sản phẩm nông nghiệp có đủ các loại như lúa, ngô, khoai, sắn và các loại rau… Các loại quả lê, táo, mận, quýt, hồng ngon nổi tiếng ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng. Đồng bào còn trồng các loại cây công nghiệp như thuốc lá, trẩu, hồi, chè.

Người Tày có nghề thủ công phong phú, đa dạng, nam nữ đều biết đan các đồ dùng bằng cót, bồ, sọt, rổ, nơm, đó… Nghề làm gạch, ngói, nung vôi có ở nhiều nơi. Nghề kéo dầu thực vật để ăn và thắp cũng khá phổ biến. Lạng Sơn có nghề chưng cất dầu hồi đã có truyền thống từ lâu. Người Tày tự túc được các loại vải để may váy áo, làm màn, khăn mặt, chăn… Nhiều vùng dệt thổ cẩm rất đẹp, nuôi tằm kéo tơ dệt lụa. Nghề rèn đã có mặt ở nhiều nơi để làm ra nông cụ như: Lưỡi cày, cuốc, xẻng, hái, các loại dao…

Từ lâu, người Tày đã cư trú tập chung thành bản, thường ở ven các thung lũng, triền núi thấp trên một miền thượng du. Mỗi bản có từ 15 đến 20 nóc nhà, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà. Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn, họ thường chọn những loại gỗ quý để dựng nhà. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hoặc lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.

Theo phong tục truyền thống, hầu hết người Tày kết hôn trong cùng dòng họ. Gia đình người Tày theo chế độ gia đình hạt nhân, phụ hệ, một vợ một chồng. Thanh niên nam nữ được tự do tìm hiểu trước khi đi đến hôn nhân. Thế nhưng, có đi đến hôn nhân hay không lại do hai gia đình quyết định. Hôn lễ truyền thống của người Tày được tiến hành qua các nghi thức: Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ đón dâu, đưa dâu…, thể hiện bản sắc văn hoá của một tộc người. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng. Gia đình người Tày thường quí con trai hơn và có qui định rõ ràng trong quan hệ giữa các thành viên trong nhà.

Người Tày quan niệm, người chết linh hồn tiếp tục sống ở thế giới bên kia. Nếu người chết bất đắc kỳ tử thì người Tày làm lán quàn quan tài, làm ma chôn tại chỗ. Trẻ em chết thì bó chiếu chôn rất xa nhà. Người già chết thì làm ma trên sân nhà ở. Khi bố mẹ qua đời, người con trai cả đeo dao, mang một gói muối đi mời thầy tào đến cúng làm đám tang. Người con đeo dao suốt những ngày diễn ra tang lễ. Hàng năm, người Tày chỉ đi tảo mộ người chết vào tết Thanh Minh (ngày 3/3 âm lịch) và chỉ cúng tổ tiên vào ngày rằm, mồng một, ngày Tết như cúng các thần linh khác.

Trang phục cổ truyền của người Tày được làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như không có hoa văn trang trí. Nữ có áo cánh ngắn may cổ cao, năm thân, cài năm khuy ở cổ và sườn bên phải, quần dài, thắt lưng, khăn. Ngày lễ hội, mặc thêm áo cánh trắng bên trong. Trước kia, phụ nữ Tày nhiều vùng cũng mặc váy, gần đây chuyển sang mặc quần, dài chấm gót, quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa. Phụ nữ Tày còn có áo dài kiểu như áo ngắn, vạt buông dài quá đầu gối. Đồ trang sức có vòng cổ, vòng tay, vòng chân và dây xà tích bằng bạc.

Trang phục của nam giới có quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa, áo ngắn cũng may năm thân, cổ đứng. Nam cũng có áo dài như cái áo ngắn kéo dài vạt xuống quá đầu gối.

Người Tày có một nền văn nghệ cổ truyền phong phú, đủ các thể loại thơ, ca, các truyện cổ tích, truyện cười dân gian, múa nhạc… Các điệu dân ca phổ biến nhất là hát lượn, hát đám cưới, ru con. Người Tày phổ biến hát lượn như hát ví ở miền xuôi. Hai bên nam nữ hát đối đáp về mọi khía cạnh của đời sống xã hội, nhất là về tình yêu đôi lứa. Có nhiều điệu lượn như lượn Slương, lượn Then, lượn Nàng Hai… Người Tày còn có các điệu hát Then, gọi là Văn ca, được ngâm hát trong đám tang, gọi là hát hội trong các hội Lồng tồng, gọi là Cỏ lẩu trong hát đám cưới.
Đàn tính là loại nhạc cụ có mặt trong tất cả những sinh hoạt văn hoá tinh thần của đồng bào Tày. Nó như linh hồn trong nghệ thuật dân ca dân vũ Tày. Bao đời nay đàn tính như một phương tiện giao tiếp mang đậm bản sắc.
Trong xu hướng phát triển kinh tế hội nhập ngày nay, để gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc Tày cùng các dân tộc anh em khác như giữ lại được những trang phục cổ truyền, sinh hoạt văn hóa trong đám cưới, ma chay, lễ hội là điều không phải dễ dàng. Việc bảo tồn và phát huy những nét sinh hoạt văn hóa độc đáo của người dân tộc đòi hỏi có một chính sách nhất quán để người dân tộc hiểu và nhận thức được vốn quý giá của dân tộc, có ý thức gìn giữ là lưu truyền qua nhiều thế hệ. Có như vậy mới tránh được tình trạng dần mất đi bản sắc của dân tộc mình, mà nhiều dân tộc hiện nay đang gặp phải.

Hoàng Mộng Lân
Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Họ có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng.

Sản phẩm nông nghiệp có đủ các loại như lúa, ngô, khoai, sắn và các loại rau… Các loại quả lê, táo, mận, quýt, hồng ngon nổi tiếng ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng. Đồng bào còn trồng các loại cây công nghiệp như thuốc lá, trẩu, hồi, chè.

Người Tày có nghề thủ công phong phú, đa dạng, nam nữ đều biết đan các đồ dùng bằng cót, bồ, sọt, rổ, nơm, đó… Nghề làm gạch, ngói, nung vôi có ở nhiều nơi. Nghề kéo dầu thực vật để ăn và thắp cũng khá phổ biến. Lạng Sơn có nghề chưng cất dầu hồi đã có truyền thống từ lâu. Người Tày tự túc được các loại vải để may váy áo, làm màn, khăn mặt, chăn… Nhiều vùng dệt thổ cẩm rất đẹp, nuôi tằm kéo tơ dệt lụa. Nghề rèn đã có mặt ở nhiều nơi để làm ra nông cụ như: Lưỡi cày, cuốc, xẻng, hái, các loại dao…

Từ lâu, người Tày đã cư trú tập chung thành bản, thường ở ven các thung lũng, triền núi thấp trên một miền thượng du. Mỗi bản có từ 15 đến 20 nóc nhà, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà. Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn, họ thường chọn những loại gỗ quý để dựng nhà. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hoặc lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.

Theo phong tục truyền thống, hầu hết người Tày kết hôn trong cùng dòng họ. Gia đình người Tày theo chế độ gia đình hạt nhân, phụ hệ, một vợ một chồng. Thanh niên nam nữ được tự do tìm hiểu trước khi đi đến hôn nhân. Thế nhưng, có đi đến hôn nhân hay không lại do hai gia đình quyết định. Hôn lễ truyền thống của người Tày được tiến hành qua các nghi thức: Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ đón dâu, đưa dâu…, thể hiện bản sắc văn hoá của một tộc người. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng. Gia đình người Tày thường quí con trai hơn và có qui định rõ ràng trong quan hệ giữa các thành viên trong nhà.

Người Tày quan niệm, người chết linh hồn tiếp tục sống ở thế giới bên kia. Nếu người chết bất đắc kỳ tử thì người Tày làm lán quàn quan tài, làm ma chôn tại chỗ. Trẻ em chết thì bó chiếu chôn rất xa nhà. Người già chết thì làm ma trên sân nhà ở. Khi bố mẹ qua đời, người con trai cả đeo dao, mang một gói muối đi mời thầy tào đến cúng làm đám tang. Người con đeo dao suốt những ngày diễn ra tang lễ. Hàng năm, người Tày chỉ đi tảo mộ người chết vào tết Thanh Minh (ngày 3/3 âm lịch) và chỉ cúng tổ tiên vào ngày rằm, mồng một, ngày Tết như cúng các thần linh khác.

Trang phục cổ truyền của người Tày được làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như không có hoa văn trang trí. Nữ có áo cánh ngắn may cổ cao, năm thân, cài năm khuy ở cổ và sườn bên phải, quần dài, thắt lưng, khăn. Ngày lễ hội, mặc thêm áo cánh trắng bên trong. Trước kia, phụ nữ Tày nhiều vùng cũng mặc váy, gần đây chuyển sang mặc quần, dài chấm gót, quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa. Phụ nữ Tày còn có áo dài kiểu như áo ngắn, vạt buông dài quá đầu gối. Đồ trang sức có vòng cổ, vòng tay, vòng chân và dây xà tích bằng bạc.

Trang phục của nam giới có quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa, áo ngắn cũng may năm thân, cổ đứng. Nam cũng có áo dài như cái áo ngắn kéo dài vạt xuống quá đầu gối.

Người Tày có một nền văn nghệ cổ truyền phong phú, đủ các thể loại thơ, ca, các truyện cổ tích, truyện cười dân gian, múa nhạc… Các điệu dân ca phổ biến nhất là hát lượn, hát đám cưới, ru con. Người Tày phổ biến hát lượn như hát ví ở miền xuôi. Hai bên nam nữ hát đối đáp về mọi khía cạnh của đời sống xã hội, nhất là về tình yêu đôi lứa. Có nhiều điệu lượn như lượn Slương, lượn Then, lượn Nàng Hai… Người Tày còn có các điệu hát Then, gọi là Văn ca, được ngâm hát trong đám tang, gọi là hát hội trong các hội Lồng tồng, gọi là Cỏ lẩu trong hát đám cưới.
Đàn tính là loại nhạc cụ có mặt trong tất cả những sinh hoạt văn hoá tinh thần của đồng bào Tày. Nó như linh hồn trong nghệ thuật dân ca dân vũ Tày. Bao đời nay đàn tính như một phương tiện giao tiếp mang đậm bản sắc.
Trong xu hướng phát triển kinh tế hội nhập ngày nay, để gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc Tày cùng các dân tộc anh em khác như giữ lại được những trang phục cổ truyền, sinh hoạt văn hóa trong đám cưới, ma chay, lễ hội là điều không phải dễ dàng. Việc bảo tồn và phát huy những nét sinh hoạt văn hóa độc đáo của người dân tộc đòi hỏi có một chính sách nhất quán để người dân tộc hiểu và nhận thức được vốn quý giá của dân tộc, có ý thức gìn giữ là lưu truyền qua nhiều thế hệ. Có như vậy mới tránh được tình trạng dần mất đi bản sắc của dân tộc mình, mà nhiều dân tộc hiện nay đang gặp phải.

Hoàng Mộng Lân